NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
Khoa học và Công nghệ Quảng Ninh: 20 năm đáng tự hào
Cách đây 64 năm, Ủy ban Khoa học Nhà nước được thành lập theo sắc lệnh số 016 ngày 4/3/1959 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Theo đó, Hội phổ biến khoa học các địa phương cũng được hình thành. Trải qua nhiều lần sáp nhập, phân tách và đổi tên theo chức năng, nhiệm vụ của từng thời kỳ, ngày 8/7/2003, Sở Khoa học – Công nghệ và Môi trường tỉnh được đổi tên thành Sở Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Quảng Ninh. Đây là giai đoạn toàn tỉnh và cả nước bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chức năng, nhiệm vụ của Sở KH&CN giúp UBND tỉnh quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ trên nhiều phương diện một cách chuyên sâu và đồng bộ. Trải qua 20 năm xây dựng và trưởng thành, Sở KH&CN Quảng Ninh luôn khẳng định vai trò quan trọng trên tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh, đồng thời tạo ra những lợi thế to lớn để địa phương bước vào kỷ nguyên hội nhập và phát triển.
Sau khi được kiện toàn, Sở đã trình BTV Tỉnh uỷ Đề án phát triển Khoa học và Công nghệ trên địa bàn tỉnh đến năm 2010. Đồng thời, tổ chức xây dựng Quy hoạch phát triển Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2006-2010 và định hướng đến năm 2020.
Những năm 2003 - 2007, Sở đã tổ chức cho các đơn vị thực hiện 99 nhiệm vụ khoa học công nghệ, bước đầu mang lại hiệu quả thiết thực. Trên mặt trận nông lâm ngư nghiệp, bằng việc dẫn nhập, khảo nghiệm và tuyển chọn các giống lúa mới, tỉnh đã chủ động sản xuất được các giống lúa thuần chủng, các giống lúa lai 2 dòng, 3 dòng, trong đó có 8 giống lúa được công nhận là giống lúa quốc gia và trở thành giống chủ lực của các tỉnh phía Bắc. Trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, nhiều đề tài nghiên cứu, dự án điều tra cơ bản, các giải pháp xử lý nước thải, chất thải... đã được ứng dụng rộng rãi nhằm đảm bảo định hướng phát triển bền vững của tỉnh, nhất là đảm bảo hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long. Sau nhiều năm nghiên cứu, sưu tầm và biên soạn, bộ sách Địa chí Quảng Ninh đã chính thức ra mắt độc giả. Đây là công trình khoa học lớn với hệ thống tư liệu được khảo nghiệm, đánh giá toàn diện về lịch sử hình thành và phát triển của Quảng Ninh.
Được sự quan tâm của Bộ KH&CN và UBND tỉnh, từ năm 2006, Quảng Ninh đã hình thành nguồn vốn riêng cho đầu tư phát triển khoa học và công nghệ. Sau 5 năm, tỉnh tiếp tục quan tâm phát huy hiệu quả các dự án đã được đầu tư trong giai đoạn trước và đẩy mạnh hoạt động đầu tư phát triển khoa học và công nghệ cả về nội dung và quy mô.

Những năm 2003 - 2007, bằng việc dẫn nhập, khảo nghiệm và tuyển chọn các giống lúa mới, tỉnh Quảng Ninh đã có 8 giống lúa được công nhận là giống lúa quốc gia và trở thành giống chủ lực của các tỉnh phía Bắc.
Từ năm 2008 - 2012, 130 đề tài, dự án khoa học và công nghệ cấp tỉnh được triển khai. Sở cũng phê duyệt gần 70 đề tài, dự án cho các địa phương và các ngành, đồng thời tổ chức triển khai các dự án ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ thuộc chương trình cấp Nhà nước, qua đó góp phần thúc đẩy sản xuất, hình thành một số ngành nghề mới, góp phần xóa đói giảm nghèo và nâng cao đời sống xã hội.
Để tạo đột phá trong lĩnh vực khoa học công nghệ, Sở đã chủ động tham mưu cho Tỉnh ủy xây dựng và ban hành Nghị quyết số 04 năm 2012 về phát triển khoa học và công nghệ đến năm 2015. Đây được coi là quyết sách chiến lược mang lại bước tiến vượt bậc cho khoa học công nghệ Quảng Ninh.
Từ năm 2011 – 2016, toàn tỉnh đã triển khai 206 nhiệm vụ khoa học công nghệ, 69,6% trong số đó được áp dụng, nhân rộng trong thực tiễn. Nhiều dự án gắn với chương trình xây dựng thương hiệu nông sản và xây dựng nông thôn mới để hình thành vùng nguyên liệu, vùng sản xuất tập trung. Một số sản phẩm đã trở thành hàng hóa được thị trường đón nhận như: rau an toàn Quảng Yên, na dai Đông Triều, miến dong Bình Liêu… Trong lĩnh vực kỹ thuật và công nghệ, tỉnh tập trung ưu tiên nguồn lực đầu tư triển khai thực hiện Đề án xây dựng chính quyền điện tử gắn với cải cách thủ tục hành chính.
Trên cơ sở định vị lại các tiềm năng, cơ hội và những lợi thế của địa phương cũng như nhận diện những hạn chế còn tồn tại; xác định KH&CN giữ vai trò then chốt trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa và từng bước hội nhập vào nền kinh tế tri thức, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh sau khi tổng kết 04 năm thực hiện Nghị quyết số 04 về “Phát triển khoa học và công nghệ tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2011- 2015, định hướng đến năm 2020”, đã tiếp tục ban hành Nghị quyết số 07 năm 2017 “về phát triển khoa học và công nghệ tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020”. Đây là cơ sở thúc đẩy phát triển các hoạt động KH&CN trên địa bàn tỉnh, kịp thời nắm bắt thời cơ, nâng cao năng lực tiếp cận và chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phù hợp với xu hướng, yêu cầu thực tiễn. Đặc biệt, Quảng Ninh đã xây dựng Quy hoạch phát triển khoa học và công nghệ tỉnh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, qua đó hoạch định những bước đi, lộ trình bài bản để có những bứt phá mới trong lĩnh vực khoa học công nghệ.
Giai đoạn 2019 - 2023, 96 nhiệm vụ cấp tỉnh, 33 nhiệm vụ cấp cơ sở được triển khai và được chuyển giao kịp thời giúp các tổ chức, doanh nghiệp ứng dụng và làm chủ quy trình kỹ thuật sản xuất, đảm bảo an toàn lao động. Các sản phẩm nông sản tiếp tục được hỗ trợ xây dựng, phát triển thương hiệu gắn với truy xuất nguồn gốc giúp tăng giá bán bình quân 15-20%. Đến nay đã xây dựng và hình thành 02 khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao về lĩnh vực trồng trọt và thủy sản, do doanh nghiệp quản lý, khai thác. Quảng Ninh cũng đẩy mạnh chuyển đổi số và áp dụng công nghệ thông tin, khoa học công nghệ vào vận hành nhằm cải tiến quy trình làm việc và mang đến những trải nghiệm tốt hơn cho người dân, doanh nghiệp, du khách.
Đặc biệt, Quảng Ninh cũng là tỉnh đầu tiên ở miền Bắc áp dụng thành công Hệ thống ISO điện tử vào 227 cơ quan hành chính Nhà nước từ tuyến tỉnh đến cấp xã, qua đó, tạo những bước đột phá trong cải cách hành chính. Sở cũng tập trung thực hiện đồng bộ giải pháp nhằm tăng cường quản lý hoạt động khoa học công nghệ trên địa bàn: hướng dẫn hàng trăm lượt doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đăng ký bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp và sở hữu trí tuệ; kết nối, tư vấn hỗ trợ khai thác, phát triển các sáng chế phục vụ sản xuất; hướng dẫn, sửa đổi, gia hạn giấy phép, thẩm định cấp giấy phép tiến hành công việc bức xạ cho các đơn vị. Từ năm 2019 đến nay, Sở đã thẩm định và cấp Giấy chứng nhận cho 11 doanh nghiệp KH&CN, nâng tổng số doanh nghiệp KH&CN trên địa bàn tỉnh là 24 doanh nghiệp, đứng thứ 4 toàn quốc. Quảng Ninh đã đồng hành cùng doanh nghiệp trong việc nâng cao năng suất, chất lượng thông qua việc triển khai nhiều hoạt động hỗ trợ, giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí về nhân lực, thời gian, đạt hiệu quả cao trong sản xuất, kinh doanh. Đến nay, tỉnh đã xây dựng được trên 50 mô hình điểm về nâng cao năng suất chất lượng. Các mô hình điểm được hỗ trợ xây dựng, áp dụng hệ thống quản lý tiên tiến và các công cụ nâng cao năng suất chất lượng.

Quảng Ninh luôn đồng hành cùng doanh nghiệp trong việc nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm hàng hoá (Trong ảnh: Giám đốc Sở KH&CN Phạm Xuân Đài thăm mô hình điểm về nâng cao NSCL tại Công ty CP gạch ngói Đất Việt).
Cùng với việc đầu tư cho khoa học công nghệ, hoạt động thúc đẩy khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo cũng lan tỏa rộng rãi đến mọi tầng lớp nhân dân, doanh nghiệp và nhất là lực lượng thanh niên, sinh viên. Từ phong trào sáng tạo khởi nghiệp của tuổi trẻ cả nước do Chính phủ phát động, tuổi trẻ Quảng Ninh không ngừng đổi mới tư duy, phương pháp để tạo ra những ý tưởng mới, những mô hình khởi nghiệp hiệu quả và phù hợp với thị trường.
Sự phát triển của khoa học công nghệ những năm qua đã đóng góp tích cực vào sự phát triển của tỉnh. Chất lượng tăng trưởng được cải thiện đáng kể; quy mô, tiềm lực của nền kinh tế tăng lên rõ rệt; cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng bền vững; dịch vụ, du lịch ngày càng trở thành ngành kinh tế mũi nhọn; công nghiệp phát triển theo hướng bền vững; nâng cao trình độ công nghệ, tỷ trọng đóng góp của công nghiệp chế biến, chế tạo. Nhiều năm liên tiếp Quảng Ninh đạt mức tăng trưởng 2 con số, cũng như giành vị trí quán quân về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) và Chỉ số cải cách hành chính (Par Index). Nhiều chỉ số khác cũng nằm trong top đứng đầu cả nước.
Năm 2022, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030, xác định đây là quốc sách hàng đầu, đóng vai trò đột phá chiến lược trong giai đoạn mới. Tại Quảng Ninh, Nghị quyết số 13 ngày 28/4/2023 của Tỉnh ủy Quảng Ninh đặt mục tiêu phấn đấu đến năm 2030, “Quảng Ninh thuộc nhóm các địa phương đi đầu cả nước về ứng dụng, chuyển giao khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, với tiềm lực, trình độ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đạt mức tiên tiến ở một số lĩnh vực quan trọng”. Với mục tiêu này, Sở KH&CN đã xây dựng chương trình hành động và tiếp tục có nhiều giải pháp đồng bộ để đẩy mạnh và phát triển khoa học công nghệ trên phạm vi toàn tỉnh.
Kết quả 20 năm qua đã khẳng đinh: Sự quan tâm, chỉ đạo của tỉnh và Bộ KHCN cùng những nỗ lực không ngừng của tập thể cán bộ, nhân viên Sở KH&CN tỉnh Quảng Ninh để đạt được nhiều thành tích đầy tự hào: 1 Huân chương Lao động Hạng Nhì, 1 Huân chương Lao động Hạng Ba, Cờ thi đua của Chính phủ cùng nhiều Bằng khen của Bộ KH&CN và tỉnh Quảng Ninh. Đó chính là động lực để Sở KH&CN tiếp tục phát huy những thành tựu đạt được và vững tin bước vào chặng đường mới.
Bài, ảnh: Thu Hương
HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Quảng Ninh nỗ lực trở thành điểm đến của công nghệ và đổi mới sáng tạo
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ Nhất của “Hội nghị phổ biến khoa học, kỹ thuật Việt Nam” tháng 5/1963, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Khoa học phải từ sản xuất mà ra và phải trở lại phục vụ sản xuất, phục vụ quần chúng, nhằm nâng cao năng suất lao động và không ngừng cải thiện đời sống của nhân dân, bảo đảm cho chủ nghĩa xã hội thắng lợi”. Thực hiện lời dạy của Bác, những năm qua Quảng Ninh đã dành nhiều quan tâm đến hoạt động khoa học và công nghệ (KH&CN), xác định KH&CN là một trong những động lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội (KTXH). Theo đó, những kết quả nổi bật hoạt động KH&CN của Quảng Ninh đã và đang góp phần thúc đẩy KTXH phát triển và nâng cao đời sống nhân dân trong giai đoạn vừa qua.
Quảng Ninh, vùng đất phên dậu Đông Bắc của Tổ quốc, nơi có vị trí đặc biệt về quốc phòng, an ninh, những năm qua, hoạt động KH&CN và đổi mới sáng tạo trên địa bàn tỉnh đã không ngừng được đẩy mạnh, tạo nên những bước tiến mới, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội.
Trong các lĩnh vực công nghiệp, y tế, du lịch, giáo dục, Quảng Ninh đã có bước phát triển vượt bậc, tạo ra nhiều sản phẩm công nghệ cao như vật liệu xây dựng từ tro bay, xỉ thải, nhà lắp ghép, công nghệ nghiền khô siêu mịn sản xuất ngói lò nung tuynel, công nghệ mới trong khai thác lò chợ xiên chéo, đưa hoạt động giáo dục STEM vào giảng dạy...v,v.
Sở KH&CN và ngành Y tế Quảng Ninh đã có những bước phát triển nhanh chóng nhờ đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng KH&CN, chuyển giao thành công các kĩ thuật mới và khó vào công tác khám, chữa bệnh.
Là đơn vị có nhiều hoạt động nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao KH&CN, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Ninh đã ứng dụng kĩ thuật ECMO là phương pháp “Oxy hóa qua màng ngoài cơ thể” cứu sống những bệnh nhân suy hô hấp, suy tuần hoàn nặng. Việc triển khai thành công kỹ thuật ECMO đã đánh dấu bước đột phá lớn trong lĩnh vực Hồi sức tích cực của ngành y tế Quảng Ninh. Nhiệm vụ nghiên cứu khoa học cấp tỉnh này đã đạt giải Nhất Hội thi Sáng tạo kỹ thuật tỉnh Quảng Ninh lần thứ VIII.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, nhờ ứng dụng KH&CN mà Quảng Ninh đã xây dựng được hàng chục sản phẩm nông sản có thương hiệu nổi tiếng như trà hoa vàng Ba Chẽ, gạo nếp cái hoa vàng Đông Triều, hoa Hoành Bồ, rau Quảng Yên, chè Đường Hoa, cam Vân Đồn, củ cải Đầm Hà, lợn Móng Cái, chả mực Hạ Long…. Quảng Ninh đã trở thành tỉnh đi đầu cả nước trong chương trình OCOP - mỗi xã, phường một sản phẩm.

Nhờ ứng dụng khoa học và công nghệ, sản phẩm nếp cái hoa vàng trở thành thương hiệu nổi tiếng của vùng đất Đông Triều.
Nhờ ứng dụng KHCN nên năng suất cây trồng, vật nuôi tại các địa phương tăng từ 10-30%, giá bán tăng từ 20-30%. Các nghiên cứu, ứng dụng trong quy hoạch vùng sản xuất phù hợp với đặc điểm sinh thái đã khai thác được tiềm năng, thế mạnh của từng địa phương. Việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ chế biến đã thúc đẩy phát triển các khu vực vùng sâu vùng xa, tạo ra nhiều nông sản hàng hoá mới, tạo công ăn việc làm cho lao động vùng nông thôn.
Trong những nhiệm kì vừa qua, BCH Đảng bộ Tỉnh, BTV Tỉnh uỷ Quảng Ninh đã ban hành các Nghị quyết chuyên đề và nhiều cơ chế, chính sách, chương trình, đề án để phát triển KH&CN. Sở KHCN đã thực hiện tốt vai trò tham mưu và quản lý nhà nước về KHCN, thúc đẩy hoạt động KH&CN của tỉnh phát triển nhanh chóng. Giai đoạn 2019-2023, Sở đã quản lý, triển khai 129 nhiệm vụ NCKH-PTCN cấp tỉnh, cấp cơ sở và 07 dự án thuộc Chương trình “Hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ KHCN thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi, vùng dân tộc tiểu số giai đoạn 2016 - 2025”. Các nhiệm vụ đã mang hiệu quả thiết thực, thu hút được sự tham gia của các doanh nghiệp, HTX và các hộ dân.
Sở KH&CN tỉnh cũng thường xuyên tổ chức các cuộc thanh tra, kiểm tra và xây dựng các chuyên đề tuyên truyền về tiêu chuẩn – đo lường – chất lượng. Từ năm 2019 đến nay, Sở đã thực hiện 62 cuộc thanh tra, kiểm tra đối với 168 đơn vị và cá nhân. Công tác thanh kiểm tra đã tác động tích cực, góp phần nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của các đơn vị kinh doanh, bảo vệ quyền lợi của người dân và doanh nghiệp.
Quảng Ninh cũng là tỉnh đầu tiên ở miền Bắc áp dụng Hệ thống ISO điện tử theo TCVN 9001:2015 vào 227 cơ quan hành chính nhà nước từ tỉnh đến cấp xã. Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng đã tích cực tham mưu cho Sở KH&CN tổ chức hướng dẫn các đơn vị thực hiện số hóa ISO điện tử; đồng thời tăng cường kiểm tra việc áp dụng, duy trì và cải tiến Hệ thống quản lý chất lượng theo Tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO 9001:2015 tại 59 cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn tỉnh. Chỉ tính năm 2022 đã có 11 tổ chức, doanh nghiệp được tư vấn, hỗ trợ xây dựng mô hình điểm về năng suất chất lượng triển khai áp dụng thành công, bước đầu mang lại hiệu quả khả quan, được Sở KH&CN trao chứng nhận Hệ thống quản lý tiên tiến.

Trung tâm Phục vụ hành chính công TX Đông Triều áp dụng, duy trì và cải tiến Hệ thống quản lý chất lượng theo Tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO 9001:2015.
Bên cạnh đó, Sở KH&CN đã triển khai có hiệu quả Chương trình phát triển tài sản trí tuệ trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh đến năm 2030 và tham mưu trình UBND tỉnh phê duyệt danh mục, mục tiêu, sản phẩm cho 03 nhiệm vụ KH&CN về sở hữu trí tuệ. Hiện tỉnh đang tổ chức Hội đồng tuyển chọn nhiệm vụ để bắt đầu thực hiện từ năm 2023. Hàng năm, Sở KH&CN đã tổ chức các hội nghị gặp gỡ, đối thoại doanh nghiệp, doanh nhân bằng hình thức “Cà phê công nghệ - Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo”. Đây là dịp để Sở KH&CN trao đổi, chia sẻ tiếp thu những đề xuất, sáng kiến của cộng đồng doanh nghiệp để từ đó tham mưu cho Tỉnh xây dựng các giải pháp, các cơ chế, chính sách hỗ trợ hiệu quả các doanh nghiệp.
Để động viên, khích lệ các doanh nghiệp tiếp tục nỗ lực đẩy mạnh ứng dụng KH&CN, Sở đã trao hỗ trợ kinh phí 1,63tỷ đồng theo Nghị quyết số 313 ngày 09/12/2020 của HĐND tỉnh về một số cơ chế tài chính khuyến khích hỗ trợ các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong hoạt động KH&CN giai đoạn 2021 - 2025. Đến nay, các địa phương trong tỉnh đã duy trì hiệu quả 55 nhãn hiệu, chủ động xây dựng 08 nhãn hiệu mới mang địa danh - trong đó 06 nhãn hiệu chứng nhận và 02 nhãn hiệu tập thể.
Hoạt động thúc đẩy khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh cũng đã được Sở KH&CN quan tâm, tạo động lực và sự lan tỏa rộng rãi đến các tầng lớp nhân dân. Đặc biệt, tuổi trẻ Quảng Ninh đã không ngừng đổi mới tư duy, tạo ra những ý tưởng mới, những mô hình khởi nghiệp hiệu quả và thiết thực phù hợp với thị trường trong và ngoài tỉnh.
Sở KH&CN cũng đã phối hợp với Liên hiệp Hội KHKT tỉnh tổ chức thành công các Cuộc thi Sáng tạo dịch vụ tỉnh Quảng Ninh; sáng tạo thanh thiếu niên nhi đồng tỉnh; Hội thi Sáng tạo kỹ thuật tỉnh; tôn vinh các danh hiệu “Trí thức khoa học và công nghệ tiêu biểu”, “Điển hình lao động sáng tạo”, “Tài năng trẻ khoa học và công nghệ” tỉnh Quảng Ninh. Thông qua các cuộc thi, Hội thi đã xuất hiện nhiều ý tưởng, đề tài, giải pháp có tính mới, độc đáo, sáng tạo có tính ứng dụng cao mang lại hiệu quả trong lao động, đời sống, kinh tế - xã hội.
Việc phân công, phân cấp trong quản lý nhà nước về KH&CN đã được Sở KH&CN cải tiến một bước thông qua việc hoàn thiện tổ chức bộ máy, quy định chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm của Sở, của bộ phận quản lý KH&CN cấp huyện. Nhờ vậy đã góp phần đưa hoạt động KH&CN cấp huyện ổn định, đi vào nề nếp và phát huy hiệu quả trong công tác quản lý, tổ chức triển khai ứng dụng kết quả KHCN vào sản xuất và đời sống trên địa bàn.
Những kết quả trên đã khẳng định vai trò của KH&CN tạo động lực mạnh mẽ trong phát triển kinh tế và an sinh xã hội, hội nhập kinh tế quốc tế của tỉnh Quảng Ninh. Tiềm lực khoa học và công nghệ của Quảng Ninh ngày càng được tăng cường. Các hoạt động đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp sáng tạo được thúc đẩy, lan tỏa trong xã hội. Nguồn lực huy động cho hoạt động KH&CN được quan tâm và tăng nhanh trong những năm gần đây. Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực khoa học và công nghệ chất lượng cao trong các cơ quan quản lý, nghiên cứu giảng dạy, các doanh nghiệp được chú trọng. Công tác quản lý nhà nước về KH&CN được tăng cường. Hạ tầng KH&CN được quan tâm đầu tư. Hoạt động nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao, đổi mới công nghệ được triển khai mạnh mẽ trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội.
Ngày 28/4/2023 BCH Đảng bộ tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 13-NQ/TU về phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030. Đây là Nghị quyết định hướng phát triển KH&CN tỉnh Quảng Ninh qua các giai đoạn phù hợp với phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh. Để đạt được mục tiêu đến năm 2030, “Quảng Ninh thuộc nhóm các địa phương đi đầu cả nước về ứng dụng, chuyển giao khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, với tiềm lực, trình độ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đạt mức tiên tiến ở một số lĩnh vực quan trọng” theo yêu cầu Nghị quyết số 13-NQ/TU, thời gian tới, ngành KH&CN sẽ tập trung triển khai một số nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm: Tham mưu triển khai Nghị quyết số 13-NQ/TU ngày 28/4/2023 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030; Quyết định số 80/QĐ-TTg ngày 11/2/2023 của Thủ tướng Chính phủ về Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; Tiếp tục rà soát, trình ban hành một số cơ chế, chính sách đủ mạnh và phù hợp để khuyến khích phát triển hoạt động KH&CN; huy động mọi nguồn lực tập trung phát triển, nâng cao tiềm lực KH&CN và đổi mới sáng tạo; nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Quỹ phát triển KH&CN tỉnh; Hoàn thiện, trình phê duyệt các dự án, đề án, chương trình KH&CN trọng tâm: Đề án nâng cao năng lực cung cấp dịch vụ công các đơn vị sự nghiệp KH&CN; Chương trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp KH&CN; hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tỉnh Quảng Ninh đến năm 2025; Chương trình phát triển thị trường KH&CN trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh đến năm 2030; Khu trình diễn, giới thiệu, mô hình, thực nghiệm ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, lưu trữ nguồn gen tại Tiên Yên; các khu khám phá khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; các trạm, điểm quan trắc môi trường phóng xạ; Tăng cường nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học gắn với phát triển các ngành, lĩnh vực trọng tâm của tỉnh: Công nghiệp chế biến, chế tạo; chuyển đổi số; kinh tế biển; y tế, nông nghiệp, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu; lĩnh vực dịch vụ; quốc phòng - an ninh...; Đẩy mạnh hợp tác, liên kết quốc tế về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Theo đó sẽ tăng cường phối hợp với các trường đại học, cơ sở nghiên cứu nhằm huy động nguồn lực, công nghệ phù hợp với điều kiện địa phương. Tích cực tham gia các hoạt động hợp tác quốc tế thúc đẩy kết nối cung cầu công nghệ, nhất là công nghệ sạch, tiên tiến, tiết kiệm năng lượng, thân thiện với môi trường.
Ngành KH&CN quyết tâm, quyết liệt thực hiện thành công mục tiêu này và đồng hành thực hiện làm theo lời Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Khoa học phải từ sản xuất mà ra và phải trở lại phục vụ sản xuất, phục vụ quần chúng, nhằm nâng cao năng suất lao động và không ngừng cải thiện đời sống của nhân dân, bảo đảm cho chủ nghĩa xã hội thắng lợi”. Qua đó góp phần xây dựng Quảng Ninh trở thành điểm đến của công nghệ và đổi mới sáng tạo, thu hút đầu tư và sớm trở thành tỉnh kiểu mẫu giàu mạnh, văn minh.
Bài, ảnh: Hương Anh
Khoa học và công nghệ đồng hành trong nghiên cứu, ứng dụng, phát triển các kỹ thuật mới ngành Y tế Quảng Ninh
“Tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học – kỹ thuật, công nghệ hiện đại vào hoạt động khám, chữa bệnh, chăm sóc, bảo vệ sức khỏe Nhân dân là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của ngành Y tế. Những năm qua, Sở Y tế Quảng Ninh đã tích cực chỉ đạo các đơn vị trong toàn ngành tổ chức thực hiện nhiệm vụ này. Trong quá trình đó, sự chỉ đạo, ủng hộ, giúp đỡ và đồng hành của Sở Khoa học và Công nghệ (KH&CN) đã góp phần quan trọng, có yếu tố quyết định về hỗ trợ nguồn lực đáng kể để các đơn vị y tế chủ động nghiên cứu, ứng dụng và chủ trì thực hiện các nhiệm vụ khoa học cấp tỉnh nhằm phát triển kỹ thuật mới, kỹ thuật cao trong việc khám chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân”. Đó là chia sẻ của ông Nguyễn Trọng Diện, Giám đốc Sở Y tế trong cuộc trò chuyện với chúng tôi.
Hàng năm, ngành Y tế đăng ký hàng chục nhiệm vụ khoa học cấp tỉnh và được Hội đồng khoa học của tỉnh đánh giá, thẩm định và được UBND tỉnh phê duyệt từ 6-8 nhiệm vụ trong một năm. Sở KH&CN luôn chủ động tham mưu cho UBND tỉnh phê duyệt và phối hợp, hướng dẫn, hỗ trợ các đơn vị của ngành Y tế tỉnh trong việc đề xuất đặt hàng, tổ chức triển khai thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học. Với sự đồng hành của Sở KH&CN, trong 20 năm qua, ngành Y tế đã triển khai hàng trăm nhiệm vụ khoa học công nghệ cấp tỉnh tại các đơn vị tiêu biểu như: Bệnh viện đa khoa tỉnh, Bệnh viện Bãi Cháy, Bệnh viện Sản Nhi, Bệnh viện Việt Nam – Thuỵ Điển Uông Bí.
Các nhiệm vụ khoa học được triển khai chủ yếu tập trung nghiên cứu, ứng dụng các kỹ thuật – công nghệ mới trên thế giới và trong nước để triển khai tại tỉnh Quảng Ninh, không ngừng nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh cho nhân dân, giúp người bệnh được áp dụng các kỹ thuật tiên tiến ngay tại tỉnh nhà mà không cần chuyển tuyến trên. Đến nay các đơn vị tuyến cuối của tỉnh như Bệnh viện đa khoa tỉnh, Bệnh viện Bãi Cháy, Bệnh viện Sản Nhi, Bệnh viện Việt Nam – Thuỵ Điển Uông Bí đã triển khai được 100% các Kỹ thuật của bệnh viện tuyến cuối của tỉnh đồng thời triển khai được từ 65-80% các kỹ thuật cao của bệnh viện hạng đặc biệt tuyến trung ương. Tỷ lệ chuyển tuyến của Quảng Ninh do vượt khả năng điều trị giảm rõ rệt từ 3,7% năm 2010 xuống còn dưới 0,7% năm 2022.
Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Ninh đã triển khai nghiên cứu, ứng dụng thành công nhiều kỹ thuật mới và mang lại hiệu quả cao như các nhiệm vụ khoa học cấp tỉnh: Ứng dụng Kỹ thuật Realtime – PCR trong chuẩn đoán và điều trị các bệnh truyền nhiễm tại Quảng Ninh; Ứng dụng kỹ thuật mổ tim hở trong điều trị các bệnh tim mạch ngoại khoa tại Quảng Ninh; Ứng dụng kỹ thuật Tim Phổi nhân tạo (ECMO) trong điều trị các bệnh lý suy hô hấp- tuần hoàn nặng; Ứng dụng Kỹ thuật xạ hình tưới máu cơ tim tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh; Kỹ thuật dẫn lưu não thất kết hợp với tiêu sợi huyết não thất cấp cứu; Ứng dụng phần mềm trí tuệ nhân tạo RAPID vào đánh giá, phân tích hình ảnh tự động về tình trạng não của bệnh nhân đột quỵ.

Các bác sĩ, điều dưỡng trong khoa Hồi sức tích cực Bệnh viện đa khoa tỉnh theo dõi tình trạng người bệnh chạy máy ECMO (thành công của nhiệm vụ khoa học công nghệ cấp tỉnh).
Cùng sự đầu tư đồng bộ về cơ sở vật chất, trang thiết bị đồng bộ hiện đại, việc làm chủ và tiếp tục nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật cao trong lĩnh vực can thiệp tim mạch, Trung tâm Can thiệp tim mạch của Bệnh viện đa khoa tỉnh trở thành địa chỉ uy tín về can thiệp tim mạch, đột quỵ của khu vực các tỉnh phía Bắc. ECMO là kỹ thuật cao, mới và phức tạp của chuyên ngành Hồi sức cấp cứu. Ở Việt Nam, kỹ thuật này mới được áp dụng thành công tại một số trung tâm hồi sức tuyến Trung ương, chưa phổ biến với các bệnh viện tuyến tỉnh. Tại Quảng Ninh, Bệnh viện đa khoa tỉnh là đơn vị đầu tiên áp dụng thành công kĩ thuật này. Việc triển khai thành công kỹ thuật ECMO đã đánh dấu bước đột phá lớn trong lĩnh vực Hồi sức tích cực của ngành Y tế Quảng Ninh, mang lại hy vọng cho những bệnh nhân suy hô hấp và suy tuần hoàn nặng trên địa bàn tỉnh không thể chuyển tuyến được điều trị bằng các kỹ thuật, trang thiết bị đồng bộ hiện đại theo tiêu chuẩn thế giới. Với giá trị, ý nghĩa và kết quả đạt được, nhiệm vụ nghiên cứu khoa học cấp tỉnh “Ứng dụng kỹ thuật oxy hóa máu qua màng ngoài cơ thể (ECMO)” đã đạt giải Nhất Hội thi Sáng tạo kỹ thuật tỉnh Quảng Ninh lần thứ VIII (2020-2021).
Bệnh viện Bãi Cháy xác định ung bướu là một trong những chuyên ngành phát triển mũi nhọn. Thời gian qua, Trung tâm Ung bướu Bệnh viện Bãi Cháy đã không ngừng cập nhật các kỹ thuật hiện đại, điều trị ung thư theo xu hướng đa mô thức (kết hợp phẫu thuật – xạ trị - hóa chất). Nhiều nhiệm vụ khoa học công nghệ ứng dụng kỹ thuật mới được đề xuất triển khai theo hướng phát triển này, tiêu biểu như: Ứng dụng phương pháp nút mạch kết hợp phá hủy u bằng đốt vi sóng trong điều trị ung thư biểu mô tế bào gan; Nghiên cứu, ứng dụng kỹ thuật xạ trị điều biến liều trong điều trị ung thư vùng đầu cổ; Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật vi sóng trong điều trị bệnh lý u gan và u tuyến giáp; Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật tán sỏi đường mật qua da trong điều trị sỏi đường mật trong và ngoài gan;… được đánh giá phù hợp với xu hướng phát triển của y học thế giới, giúp bệnh nhân phục hồi sức khỏe nhanh chóng, rút ngắn thời gian nằm viện và tiết kiệm chi phí điều trị và nhân rộng kỹ thuật tán sỏi đường mật qua da trong điều trị sỏi đường mật trong và ngoài gan điều trị hiệu quả cho nhiều người bệnh.
Tại Bệnh viện sản nhi Quảng Ninh, nhiều công nghệ mới trong kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đã được nghiên cứu, ứng dụng thành công. Công nghệ thụ tinh trong ống nghiệm IVF được nghiên cứu thử nghiệm và áp dụng thành công đã trở thành giải pháp cho nhiều gia đình hiếm muộn không chỉ riêng tại Quảng Ninh mà còn giúp đỡ người dân ở nhiều tỉnh lân cận. Đã có hơn 2.000 cháu bé ra đời từ phương pháp hỗ trợ sinh sản tại bệnh viện. Hiện nay, Trung tâm IVF của Bệnh viện vẫn tiếp tục cập nhật những kỹ thuật mới, triển khai các kỹ thuật về di truyền để sàng lọc chọn ra những phôi thai khỏe mạnh, làm tăng cao khả năng mang thai thành công. Bên cạnh đó nhiều công nghệ được nghiên cứu ứng dụng như: Ứng dụng, phát triển mô hình “Ngân hàng sữa mẹ”; Kỹ thuật phẫu thuật tim hở, xử trí trường hợp dị tật bẩm sinh; Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật chọc ối trong chẩn đoán trước sinh nhằm phát hiện các dị tật thai nhi;… là những kỹ thuật cao được nghiên cứu ứng dụng tại bệnh viện từ nguồn sự nghiệp phát triển khoa học công nghệ của tỉnh.

Đã có hơn 2.000 cháu bé ra đời từ phương pháp hỗ trợ sinh sản tại Bệnh viện Sản nhi Quảng Ninh. (Trong ảnh: Bác sĩ CKII Đỗ Duy Long, Phó Giám đốc BV Sản Nhi Quảng Ninh tư vấn hỗ trợ sinh sản cho cặp vợ chồng hiếm muộn).
Chỉ tính trong giai đoạn từ năm 2015 đến hết năm 2022, các đơn vị ngành Y tế chủ trì thực hiện 18 nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp tỉnh. Trong năm 2020-2022, các đơn vị y tế chủ trì thực hiện 06 nhiệm vụ KHCN cấp tỉnh và tiếp tục đăng ký thực hiện 05 nhiệm vụ khoa học cấp tỉnh năm 2023. Trong đó, các nhiệm vụ đều tập trung vào ứng dụng những kỹ thuật, công nghệ mới, hiện đại. Các nhiệm vụ khoa học công nghệ của ngành Y tế triển khai đều được áp dụng thực tiễn trong điều trị và kiểm soát bệnh tật và ứng dụng bền vững tại các đơn vị Y tế. Đó là minh chứng rõ nét về sự phát triển của đội ngũ trí thực thức khoa học và là thành tựu của hoạt động khoa học công nghệ ngành Y tế bởi nhiều nhiệm vụ, giải pháp đó đã đạt giải cao tại các Hội thi Sáng tạo kỹ thuật tỉnh Quảng Ninh và toàn quốc. Sau khi nghiệm thu kết quả, sản phẩm của nhiệm vụ khoa học công nghệ, các đơn tiếp tục bổ sung danh mục kỹ thuật và trở thành thực hiện thường quy tại đơn vị.
Cũng theo ông Nguyễn Trọng Diện, Giám đốc Sở Y tế thì việc đẩy mạnh và quyết liệt triển khai đồng bộ các giải pháp nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ đã tạo nên những những bước tiến vượt bậc của ngành y tế tỉnh Quảng Ninh thời gian vừa qua. Thành công này đã giúp nâng cao hiệu quả và chất lượng hoạt động điều trị bệnh, giảm thiểu chi phí cho bệnh nhân, góp phần nâng cao chất cuộc sống và mang lại hạnh phúc cho nhân dân. Với sự đồng hành của Sở KH&CN, trong thời gian tới, cùng với dòng chảy của sự phát triển công nghệ, các đơn vị y tế tiếp tục thúc đẩy ứng dụng các giải pháp số hóa và khai thác trí tuệ nhân tạo hỗ trợ để nâng cao hiệu quả của chẩn đoán và xây dựng chiến lược chăm sóc và điều trị cho người bệnh. Các ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) và các thuật toán học máy (machine learning), học sâu (deep learning) hiện đang được nghiên cứu rộng rãi và ngày càng được nâng cao chất lượng, độ tin cậy về các gợi ý hỗ trợ bác sĩ. Cùng với việc ứng dụng rộng rãi và chuẩn hóa bệnh án điện tử (EMR) và hồ sơ sức khỏe điện điện tử (EHR), cơ hội đang đặt ra cho lĩnh vực y tế trong việc hội nhập và khai thác các dữ liệu lớn (bigdata) tại các trung tâm dữ liệu lớn trong nước và quốc tế để ứng dụng công nghệ hiện đại và nâng cao chất lượng dịch vụ y tế về mọi mặt.
Bài, ảnh: Thu Hương
Thúc đẩy phong trào sáng tạo khoa học kỹ thuật
Là thành viên Hội đồng KH&CN tỉnh, Cơ quan thường trực tổ chức các hội thi, cuộc thi, giải thưởng về KHCN, kỹ thuật tỉnh, Liên hiệp các Hội KHKT tỉnh đã làm tốt công tác tổ chức, góp phần thúc đẩy phong trào sáng tạo KHCN, kỹ thuật trong tỉnh.
Từ năm 2017 đến nay, Liên hiệp đã phối hợp chặt chẽ với các sở, ban, ngành, địa phương, các đơn vị liên quan tổ chức: Hội thi Sáng tạo kỹ thuật tỉnh (2 năm/lần), Cuộc thi Sáng tạo thanh thiếu niên, nhi đồng tỉnh (hằng năm), Cuộc thi Sáng tạo dịch vụ tỉnh (2 năm/lần), Giải thưởng Sáng tạo KHCN Việt Nam (1 năm/lần).
Liên hiệp thường xuyên tham gia ý kiến cho các đề tài, dự án nghiên cứu khoa học, ứng dụng KHCN. Các hội thi, cuộc thi, giải thưởng được tổ chức ngày càng chất lượng, bài bản, đã thu hút, tạo động lực thúc đẩy hoạt động nghiên cứu, ứng dụng KHKT trong nhân dân. Công tác truyền thông được thực hiện với nhiều hình thức mới, qua nền tảng mạng xã hội, đã tiếp cận đa dạng các lứa tuổi, nhất là với giới trẻ, học sinh, sinh viên, ươm mầm và nuôi dưỡng ước mơ trở thành các nhà khoa học, nhà sáng chế trong tương lai.
Liên hiệp nghiên cứu, sáng tạo, đưa vào triển khai ứng dụng Hệ thống thông tin hội thi, cuộc thi, giải thưởng sáng tạo KHCN và kỹ thuật. Việc nộp, nhận hồ sơ dự thi và đánh giá, chấm điểm được thực hiện trên môi trường mạng, giúp cho công tác tổ chức được công khai, minh bạch, thuận lợi hơn, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ phong trào chuyển đổi số của tỉnh.
Từ các hoạt động trong suốt quá trình tổ chức các hội thi, cuộc thi đã góp phần đẩy mạnh phong trào thi đua học tập, lao động sáng tạo, ứng dụng KHCN, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật trong các doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị, trường học; phát huy sức sáng tạo của đội ngũ trí thức, CBCC, người lao động, học sinh, thanh thiếu nhi trong tỉnh; đưa những sáng tạo có giá trị về kinh tế và ý nghĩa về xã hội phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH của tỉnh.
Ông Nguyễn Quang Mâu, Anh hùng Lao động, Chủ tịch HĐQT Tổ hợp Công ty CP Gốm Đất Việt (TX Đông Triều), đại diện nhóm tác giả có công trình được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về KHCN đầu tiên của Quảng Ninh, cho biết: "Tư tưởng của Đất Việt là sáng tạo không ngừng, lấy KHCN làm then chốt. Vì thế công tác động viên, thi đua khen thưởng là vô cùng quan trọng. Việc đạt được những thành tựu về KHCN, kỹ thuật, được công nhận là doanh nghiệp KHCN, được tỉnh tôn vinh, đã cho chúng tôi thêm động lực, sức mạnh, luồng gió mới để phấn đấu".
Không để các đề tài nghiên cứu khoa học, giải pháp sáng tạo đoạt giải tại các cuộc thi, hội thi chỉ dừng lại ở các giải thưởng, hoạt động ứng dụng chuyển giao KHKT được Liên hiệp, các tổ chức thành viên và các cơ quan, đơn vị đặc biệt chú trọng thông qua đẩy mạnh hợp tác chuyển giao các tiến bộ KHCN vào sản xuất và đời sống, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu.
Đến nay nhiều mô hình đã được ứng dụng thành công tại các địa phương, đơn vị, giúp nâng cao năng suất lao động, chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ của tỉnh, như: Mô hình sử dụng nguồn năng lượng tại chỗ thay thế năng lượng điện; mô hình sản xuất ngói cao cấp bằng công nghệ nghiền khô; mô hình sản xuất tấm cốp pha nhựa khung thép; mô hình Smarthome cho các gia đình nông thôn Việt Nam…
Ông Nguyễn Xuân Thủy, Chủ tịch HĐQT, Tổng Giám đốc Công ty CP Thiết kế và Phát triển công nghệ SPAN, một trong những tác giả đoạt giải Hội thi STKT tỉnh, toàn quốc với giải pháp "Công nghệ sàn bóng, tấm cốt pha nhựa khung thép” và "Công nghệ xây dựng nhà khung thép bằng các cấu kiện bê tông đúc sẵn", chia sẻ: “Chúng tôi rất vui mừng khi nhận được giải thưởng của Hội thi. Đây là một trong những giải thưởng uy tín về KHCN. Các sản phẩm của chúng tôi sau khi được thông qua Hội đồng đánh giá, đã nhận được sự tin tưởng, quan tâm rất lớn của người tiêu dùng".
Từ năm 2018 đến nay, với vai trò là Cơ quan thường trực Hội đồng xét chọn, tôn vinh, Liên hiệp đã 2 lần tổ chức xét chọn và tham mưu UBND tỉnh ban hành quyết định tôn vinh danh hiệu: “Trí thức KHCN tiêu biểu” cho 89 cá nhân, “Điển hình lao động sáng tạo” cho 61 cá nhân, “Tài năng trẻ KH&CN” cho 3 cá nhân.
Bà Phan Thị Huệ, Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Hạ Long, một trong những trí thức KHCN tiêu biểu được tôn vinh năm 2019, chia sẻ: Việc tôn vinh thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với đội ngũ trí thức, ghi nhận sự đóng góp của các cá nhân đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Từ đó khuyến khích, cổ vũ sự nỗ lực vươn lên của cộng đồng trí thức, tạo động lực và lan tỏa phong trào nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo đối với mọi tầng lớp, lứa tuổi, ngành nghề.
Có thể khẳng định, các cuộc thi, hội thi về KHCN đã trở thành sân chơi trí tuệ, bổ ích, ngày càng thu hút được nhiều thành phần tham gia. Từ đó, xuất hiện nhiều sáng kiến, giải pháp cải tiến kỹ thuật được ứng dụng vào thực tiễn sản xuất và đời sống, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, đồng thời thúc đẩy phong trào thi đua lao động sáng tạo trên địa bàn tỉnh.
Nguyễn Thị Hằng Ngần
Đòn bẩy khuyến khích ứng dụng KH&CN phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo
Nhiệm kỳ 2020-2025, tỉnh Quảng Ninh xác định chế biến, chế tạo là một trong 3 trụ cột chính của ngành công nghiệp, tập trung ưu tiên các dự án có công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, công nghệ sạch, quản trị hiện đại, có giá trị gia tăng cao. Tỉnh đã dành sự quan tâm, ưu tiên ứng dụng KH&CN phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo nhằm thúc đẩy tăng trưởng bền vững. Ngay từ những bước khởi đầu của nhiệm kỳ mới, với tinh thần hành động, khẩn trương, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh đã ban hành Nghị quyết số 01-NQ/TU về phát triển nhanh, bền vững công nghiệp chế biến, chế tạo giai đoạn 2020-2025, định hướng đến năm 2030.
Trên cơ sở mục tiêu của Tỉnh về phát triển ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, Sở KH&CN đã xây dựng kế hoạch triển khai, tham mưu các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu xây dựng các cơ chế, chính sách nhằm tạo thuận lợi và thúc đẩy doanh nghiệp đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển, ứng dụng KH&CN. Sở cũng hướng dẫn các cơ quan, tổ chức doanh nghiệp nghiên cứu, phát triển các công nghệ có khả năng ứng dụng cao vào thực tiễn để phát triển các sản phẩm cụ thể; hỗ trợ các tổ chức thiết kế, chế tạo, thử nghiệm, hoàn thiện công nghệ tại doanh nghiệp; thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu áp dụng vào thực tiễn….
Những năm gần đây, Công ty CP Chế tạo máy - Vinacomin đã đẩy mạnh phong trào thi đua phát huy sáng kiến, cải tiến, ứng dụng khoa học công nghệ mới trong các dây chuyền chế tạo, gia công thiết bị cơ khí. Cách làm này đã giúp Công ty nâng cao năng suất lao động, tiết giảm nhân công, chi phí, hợp lý hóa dây chuyền sản xuất, cải tiến chất lượng sản phẩm cơ khí phục vụ cho các đơn vị ngành Than.

Giám đốc Sở KH&CN Phạm Xuân Đài kiểm tra việc triển khai áp dụng HTQL Năng lượng và HTQL Môi trường theo tiêu chuẩn ISO tại VMC.
Công ty CP Chế tạo máy là một trong những đơn vị có quy mô lớn trong các nhà máy cơ khí của Việt Nam. Hệ thống nhà xưởng của đơn vị được trang bị mái che, đồng bộ thiết bị cơ khí và hệ thống nâng tải trong nhà xưởng có tải trọng đến 30 tấn. Hiện Công ty đang tập trung chế tạo, sửa chữa các thiết bị cơ khí phục vụ cơ giới hóa khai thác than hầm lò như: Dây chuyền sản xuất, cột chống thủy lực; dây chuyền sửa chữa thiết bị thủy lực; dây chuyền cán thép vì lò… Để đáp ứng nhu cầu phục vụ sản xuất than hầm lò cho các đơn vị TKV, Công ty CP Chế tạo máy đã áp dụng đồng bộ giải pháp, trong đó đặc biệt chú trọng đến phát huy tốt phong trào sáng kiến, cải tiến kỹ thuật. Nhiều sáng kiến cải tiến kỹ thuật của đơn vị khi áp dụng được Tập đoàn đánh giá cao, mang lại hiệu quả tiết giảm nhân công, chi phí sản xuất.
Với sự đồng hành của Sở KH&CN, năm 2022 Công ty CP Chế tạo máy – Vinacomin (VMC) đã đăng ký và triển khai áp dụng thành công 02 HTQL tiến tiến và 01 công cụ 5S, trong đó có HTQL Năng lượng ISO 50001:2018 (là HTQL lần đầu tiên được áp dụng tại Quảng Ninh). HTQL Năng lượng ISO 50001:2018 là hệ thống mới, lần đầu tiên được triển khai áp dụng tại Quảng Ninh đòi hỏi sự quyết tâm cao trong triển khai áp dụng nhưng hiệu quả mang lại cho doanh nghiệp là rất lớn. Xác định rõ điều này, Ban Lãnh đạo Công ty đã cùng đồng lòng, quyết tâm chỉ đạo triển khai thực hiện và bước đầu đã đạt được những kết quả nhất định.
Trên cơ sở các hướng dẫn của Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng (Sở KH&CN) trong suốt quá trình triển khai các công việc thuộc nội dung chương trình nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm hàng hóa tại VMC, Công ty TNHH Tư vấn, Quản lý và Phát triển doanh nghiệp Á Châu (AHEAD) đã phối hợp với VMC triển khai xây dựng áp dụng HTQL Môi trường ISO 14001:2015, HTQL Năng lượng ISO 50001:2018 và Công cụ năng suất 5S tại Công ty. Triển khai các khóa đào tạo nhận thức chung về HTQL Môi trường ISO 14001:2015, HTQL Năng lượng ISO 50001:2018; Công cụ năng suất 5S cho các thành viên thuộc Ban ISO Công ty; Xây dựng bổ sung 30 quy trình và văn bản tài liệu liên quan đến HTQL Môi trường, HTQL Năng lượng và Công cụ năng xuất 5S. Công ty đã ban hành các quy trình, văn bản tài liệu đảm bảo tính hiệu lực của HTQL. Đồng thời, tổ chức đào tạo các chuyên gia đánh giá nội bộ hệ thống cũng như hướng dẫn đào tạo cách thức đánh giá 5S.
Việc áp dụng HTQL Năng lượng ISO 50001:2018; HTQL Môi trường ISO 14001:2015; Công cụ năng suất 5S giúp Công ty đáp ứng đầy đủ các yêu cầu quy định của Luật năng lượng, Luật môi trường và yêu cầu của khách hàng. Đồng thời, giúp Công ty nâng cao kỹ năng quản lý, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, tăng hiệu quả quản lý môi trường…
Công ty CP Than Vàng Danh là một trong những đơn vị sản xuất than hầm lò quy mô lớn của TKV. Thời gian qua, Công ty đã không ngừng nghiên cứu, đổi mới, ứng dụng KHCN, đã chế tạo ra những sản phẩm, thiết bị mới nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, trở thành điển hình tiêu biểu của ngành Than.
Hệ thống điều khiển tự động đóng mở ghi đường sắt trong hầm lò do Công ty Than Vàng Danh tự nghiên cứu chế tạo. Chỉ với một thao tác nhấn nút điều khiển, đoàn tàu sẽ chuyển hướng mà không cần phải lên, xuống tàu để bẻ ghi thủ công như trước. Giải pháp này đã mang lại hiệu quả cao về kinh tế và bảo đảm an toàn lao động cho thợ lò; tạo ra tiền đề để phát triển hệ thống tự động hóa toàn tuyến vận tải đường sắt tại Công ty cũng như các đơn vị khai thác than hầm lò khác của TKV.
Công nghệ khai thác lò chợ xiên chéo, chống giữ bằng giàn chống mềm ZRY25/35L không để lại trụ bảo vệ lò vận tải của Than Vàng Danh cũng mang lại lợi ích thiết thực. Công nghệ đã nâng cao hiệu quả thiết bị và giảm tổn đọng tài nguyên than hầm lò từ 21% xuống còn 17%, tăng sản lượng khai thác bình quân 6,36 tấn/công-ca, góp phần ổn định diện sản xuất, tăng thu nhập cho người lao động. Được áp dụng từ giữa năm 2021, giải pháp này đã làm lợi cho Công ty hàng chục tỷ đồng/năm.
Các giải pháp KHCN của Công ty Than Vàng Danh luôn chú trọng đến công tác đảm bảo an toàn và tăng năng suất khai thác than. Giải pháp “Chế tạo máy đánh đáy xe goòng dùng trong hầm lò” là một ví dụ. Trước đây việc làm sạch xe goòng được thực hiện bằng biện pháp thủ công tốn nhiều công sức, chi phí. Trăn trở với thực tế này, đội ngũ lãnh đạo, cán bộ, công nhân của đơn vị đã nghiên cứu, chế tạo thiết bị đánh tơi than đá bám dính đáy xe goòng một cách hiệu quả.
Ba giải pháp KHCN trên đã được Công ty Than Vàng Danh gửi tham gia Hội thi Sáng tạo khoa học kỹ thuật tỉnh Quảng Ninh lần thứ VIII và đã đạt 2 giải nhất, 1 giải nhì. Kết quả này khẳng định sự quan tâm đặc biệt của Ban lãnh đạo Công ty với phong trào nghiên cứu, đổi mới, ứng dụng khoa học công nghệ vào phát triển sự nghiệp khai thác than của đơn vị.
Bên cạnh thế mạnh nổi bật trong lĩnh vực công nghiệp chế tạo, Quảng Ninh còn có tiềm năng rất lớn về nuôi trồng, chế biến thuỷ hải sản. Công ty CP Green Aquatech ở thành phố Cẩm Phả là một trong những doanh nghiệp đã chú trọng áp dụng KH&CN để nâng tầm giá trị hải sản Quảng Ninh.
Công ty Green Aquatech chính là doanh nghiệp đầu tiên của Quảng Ninh nuôi cua lột theo dây chuyền công nghệ hiện đại bằng hệ thống lọc nước tuần hoàn RAS trong hộp nhựa. Doanh nghiệp đã đầu tư hệ thống xử lý nước biển với các bể lắng, bể lọc thô, lọc tinh, lọc vi sinh...để đảm bảo nguồn nước tinh khiết cho nuôi cua.
Xác định chìa khoá của sự thành công là phải tiếp nhận, chuyển giao các công nghệ tiên tiến về nuôi trồng và chế biến thủy hải sản, Công ty Green Aquatech đã triển khai mạnh mẽ ứng dụng KHCN và nhận được sự đồng hành, hỗ trợ tích cực của Sở KH&CN QN. Sở KH&CN đã trực tiếp, hướng dẫn lập hồ sơ đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ; thành lập doanh nghiệp KH&CN và xây dựng tiêu chuẩn cho các sản phẩm của doanh nghiệp này.

Sản phẩm hải sản của Công ty CP Green Aquatech được đóng gói bằng công nghệ khí cải tiến.
Công ty đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký chuyển giao công nghệ số 02 về quy trình công nghệ đóng gói thực phẩm sử dụng máy đóng gói bán tự động có chức năng thổi khí và giải pháp truy xuất nguồn gốc.
Hiện Công ty Green Aquatech đã sản xuất và cho ra thị trường hơn 10 đầu sản phẩm hải sản mát. Những loại hải sản, đặc sản chất lượng cao của các vùng, miền ở Quảng Ninh được Công ty chế biến như: Cá song, hàu Thái Bình Dương ở Vân Đồn; mực, móng tay ở Cô Tô... Các sản phẩm hải sản được chế biến tại chỗ đảm bảo mát ở nhiệt độ 10 độ C, đóng gói ở nhiệt độ 12-15 độ C, rồi chuyển qua kho bảo quản ở nhiệt độ 4 độ C giữ được chất lượng tươi sống cho sản phẩm.
Công ty CP Green Aquatech đã đầu tư hệ thống nhà xưởng rộng 1.200m2; hệ thống máy móc, công nghệ của Châu Âu trị giá 7 tỷ đồng. Hiện sản phẩm hải sản mát của Công ty đạt các tiêu chuẩn về VSATTP, đưa ra thị trường Quảng Ninh, Hà Nội, các cửa hàng, siêu thị hải sản với sản lượng khoảng 1tấn/ngày.
Với những thành tích trong hoạt động đầu tư, ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất, Công ty CP Green Aquatech đã được Sở KH&CN cấp Giấy chứng nhận Doanh nghiệp KH&CN. Đây chính là động lực để thời gian tới Công ty sẽ tiếp tục phát triên mạnh mẽ SXKD, nâng tầm giá trị hải sản của Quảng Ninh, hướng tới thị trường xuất khẩu.
Để hỗ trợ các doanh nghiệp trên địa bàn Tỉnh đẩy mạnh ứng dụng, đổi mới sáng tạo khoa học và công nghệ trong lĩnh vực chế biến chế tạo nói riêng và sản xuất nói chung, thời gian qua Sở KH&CN đã tích cực tham mưu cho UBND tỉnh xây dựng các cơ chế chính sách như: Hỗ trợ nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm, hàng hóa trên địa bàn tỉnh; thực hiện Chương trình phát triển tài sản trí tuệ trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh đến năm 2030; tham mưu cho UBND tỉnh phê duyệt danh mục các nhiệm vụ KH&CN; hỗ trợ doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân theo Nghị quyết 313 ngày 9/12/2020 của HĐND tỉnh về một số cơ chế tài chính khuyến khích hỗ trợ các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong hoạt động KHCN trên địa bàn Quảng Ninh giai đoạn 2021-2025. ;...
Bài, ảnh: Hương Anh
Đẩy mạnh cơ giới hóa nông nghiệp tại các địa phương trong tỉnh
Trong những năm gần đây, các địa phương trong tỉnh đã tích cực áp dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại vào phục vụ sản xuất nông nghiệp, qua đó đã góp phần giảm sức lao động, giảm chi phí đầu tư, nâng cao sức cạnh tranh cho nông sản, tăng hiệu quả kinh tế. Đồng thời giải quyết được vấn đề thiếu hụt nhân lực làm nông nghiệp và thúc đẩy liên kết sản xuất giữa các doanh nghiệp, hợp tác xã với nông dân...

Mô hình trồng chè sử dụng thiết bị tưới tự động của gia đình anh Nguyễn Văn Thiện (thôn Hải Đông, xã Quảng Thành, huyện Hải Hà).
Là người tiên phong trong ứng dụng công nghệ vào sản xuất chè ở thôn Hải Đông, xã Quảng Thành, huyện Hải Hà, anh Nguyễn Văn Thiện đánh giá rất cao hệ thống tưới tự động tiết kiệm cho hơn 2ha chè của gia đình. Đây là hệ thống tưới tiêu vận hành thông qua điện thoại di động. Trước đây, với diện tích này, anh Thiện phải thuê 4 lao động, hiện nay chỉ cần một mình anh điều khiển từ xa cũng có thể hoàn thành trong chưa đầy 1 giờ đồng hồ. Đặc biệt, hệ thống tưới này không chỉ giúp cung cấp nước cho vùng chè, mà toàn bộ phân bón sử dụng là phân chuồng, phân xanh và các loại phân hữu cơ khác cũng được hòa qua hệ thống tưới tự động để bón cho cây... Anh Thiện cho biết: Việc áp dụng công nghệ số vào các khâu trong sản xuất đang là một xu hướng tất yếu đối với nông nghiệp hiện đại. Cách làm này sẽ góp phần tiết kiệm tối đa nhân lực mà vẫn đảm bảo hiệu quả cao nhất trên cùng một diện tích canh tác.
Cùng với anh Thiện, thời gian qua, trên các diện tích sản xuất nông nghiệp trong tỉnh, việc áp dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại vào các khâu sản xuất đang được bà con nông dân tích cực triển khai. Đơn cử như trong sản xuất lúa, hiện các khâu gieo cấy, thu hoạch được áp dụng cơ giới hóa ngày càng cao. Toàn tỉnh có trên 700 máy cấy các loại; việc ứng dụng mạ khay, cấy lúa bằng máy là một bước tiến trong chuyển giao tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, góp phần tích cực thực hiện chủ trương đưa cơ giới hóa vào sản xuất nông nghiệp. Việc sử dụng máy cấy giúp các địa phương quy hoạch được vùng sản xuất gieo cấy cùng một loại giống, cùng trà thuận lợi cho việc chăm sóc, thu hoạch, từng bước hình thành các vùng sản xuất lúa hàng hóa tập trung, góp phần thay đổi tập quán sản xuất lúa nhỏ lẻ.
Đối với khâu thu hoạch lúa, mức độ cơ giới hoá trong thu hoạch lúa đạt 96,5%. Việc sử dụng phổ biến các loại máy gặt đập liên hợp giúp cho khâu thu hoạch lúa bảo đảm thời vụ, góp phần tăng năng suất, chất lượng và giảm đáng kể tổn thất, hao hụt. Cùng với đó, khâu vận chuyển nông sản được phát triển mạnh, phương tiện vận tải ở khu vực nông thôn trong tỉnh không ngừng tăng lên và góp phần tích cực vào việc giảm bớt lao động nặng nhọc cho người lao động nông nghiệp, giải quyết tốt việc vận chuyển nông sản trong thời vụ.
Theo đánh giá của Sở NN&PTNT, việc áp dụng kỹ thuật tiên tiến, hiện đại trong sản xuất nông nghiệp đã từng bước hình thành các vùng sản xuất tập trung mang lại hiệu quả kinh tế cao. Toàn tỉnh hiện có trên 7.000 máy làm đất các loại, đáp ứng 95% diện tích canh tác; hơn 2.500 máy tuốt đập, 3.000 máy xay xát đáp ứng trên 95% nhu cầu sản xuất. Một số chủng loại máy mới được đưa vào sản xuất tại các khâu công việc như: Vận chuyển, đập tách hạt, bơm nước; các khâu mới như: Phun thuốc bảo vệ thực vật, xúc đào mương ngày càng được áp dụng rộng rãi. Hiện tỷ lệ cơ giới hóa trong khâu thu hoạch đạt trên 80%; tưới tiêu chủ động đạt 80% diện tích. Ngoài ra, còn nhiều mô hình ứng dụng cơ giới hoá trong chế biến thức ăn chăn nuôi, tự động cho ăn, uống, máy vắt sữa, nghiền thức ăn... được thực hiện, đầu tư cơ bản ở các trang trại, doanh nghiệp chăn nuôi. Với việc nâng cao hiệu quả cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp đã giúp bà con nông dân chủ động thời vụ gieo trồng, giảm tổn thất sau thu hoạch, tăng năng suất cây trồng, tăng giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích nâng cao hệ số sử dụng đất, tăng thu nhập cho người nông dân.
Trong thời gian tới, để tiếp tục tạo ra những chuyển biến hiệu quả hơn nữa từ cơ giới hóa, ngành nông nghiệp Quảng Ninh có kế hoạch tập trung thực hiện các giải pháp: Đầu tư nâng cấp, hoàn thiện kết cấu hạ tầng nông thôn phù hợp việc áp dụng cơ giới hóa đồng bộ từng bước tiến tới tự động hóa trong khâu sản xuất, bảo quản, chế biến nông sản, phù hợp với điều kiện từng vùng sản xuất hàng hóa tập trung, từng loại cây trồng, vật nuôi chính như: Lúa, rau màu, chăn nuôi, thủy sản... Tập trung đẩy mạnh phát triển công nghiệp hỗ trợ và đào tạo nguồn nhân lực sử dụng thành thạo các máy móc, thiết bị đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất hàng hóa lớn trong nông nghiệp. Đẩy mạnh cơ giới hóa đồng bộ ở tất cả các khâu sản xuất, bảo quản, chế biến nông sản, phù hợp với điều kiện từng vùng, từng loại cây trồng, vật nuôi; áp dụng quy trình kỹ thuật và quản lý chất lượng đồng bộ; đầu tư thiết bị, công nghệ hiện đại trong bảo quản, chế biến sau thu hoạch, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, tăng sức cạnh tranh nhằm nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững...
Nguyễn Thanh Tùng
Nỗ lực chuyển đổi số toàn diện ở huyện vùng cao Ba Chẽ
Quyết tâm triển khai thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TU của BTV Tỉnh ủy về chuyển đổi số toàn diện trên địa bàn tỉnh, ngay từ đầu năm, trên tinh thần nỗ lực, UBND huyện Ba Chẽ đã ban hành nhiều kế hoạch, văn bản chỉ đạo, điều hành các cơ quan chuyên môn huyện và UBND các xã, thị trấn thực hiện công tác Chuyển đổi số toàn diện trên địa bàn huyện và Đề án 06 phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia.
Huyện chỉ đạo tới các cơ quan, đơn vị tiếp tục đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền với nhiều hình thức phong phú, đa dạng như: Duy trì chuyên mục “Chuyển đổi số toàn diện - Vì sự phát triển kinh tế xã hội nhanh, bền vững”; hướng dẫn nhân dân thực hiện cài đặt và sử dụng ứng dụng định danh điện tử và các ứng dụng số; hướng dẫn người dân đăng ký thuê bao di động chính chủ; triển khai thực hiện thanh toán và chi trả an sinh xã hội không dùng tiền mặt; tăng cường công tác quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử, kinh doanh trên nền tảng số; triển khai chữ ký số cá nhân trong đội ngũ CBCCVC; hướng dẫn đăng ký, kích hoạt thành công tài khoản định danh điện tử mức độ 2... Các Tổ công nghệ số tiếp tục phát huy hiệu quả hoạt động hỗ trợ, hướng dẫn người dân cài đặt và sử dụng các ứng dụng số. Từ đầu năm 2023 đến nay, toàn huyện đã có thêm 3.100 trường hợp cài đặt các ứng dụng VneID, Sổ bảo hiểm số VssID, Sổ sức khỏe điện tử, các ứng dụng của ngân hàng...
Cùng với đó, hiện Trung tâm Hành chính công huyện cũng thực hiện giải quyết TTHC theo quy trình "5 bước trên môi trường điện tử" (tiếp nhận, thẩm định, phê duyệt, đóng dấu - ký số, trả kết quả); thực hiện cung cấp 260 dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 trong tổng số 277 thủ tục hành chính; 100% kết quả giải quyết thủ tục hành chính của công dân được số hóa, tích hợp lên hệ thống phần mềm của tỉnh; thực hiện cấp 250 chữ ký số cá nhân cho đội ngũ CBCCVC; tỷ lệ thực hiện số hóa hồ sơ đạt 100%; tỷ lệ hồ sơ số hóa kết quả giải quyết đạt 100%...
Đặc biệt, triển khai việc thực hiện Đề án 06 của Chính phủ về phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia, Công an huyện đã triển khai các biện pháp nghiệp vụ, hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, bảo đảm tiêu chí “đúng, đủ, sạch, sống”. Tính đến tháng 6/2023, đã cấp được 17.353/17.414 thẻ CCCD gắn chíp điện tử, đạt tỷ lệ 99,6%; thu nhận hồ sơ cấp 11.145/17.560 định danh điện tử cho công dân, đạt tỷ lệ 63,4%, đạt 125,3% kế hoạch giao.

Công an huyện Ba Chẽ hướng dẫn làm định danh và xác thực điện tử cho người dân thị trấn Ba Chẽ (huyện Ba Chẽ).
Nhờ thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp, đến nay các cơ quan, đơn vị, người dân trên địa bàn huyện Ba Chẽ đã tích cực chuyển đổi số toàn diện. Điển hình: Sử dụng chức năng quản lý hồ sơ công việc và ký số văn bản đi trên hệ thống chính quyền điện tử, đạt tỷ lệ 100%; hình thức thanh toán điện tử (dịch vụ Mobile Banking) được ứng dụng rộng rãi; số thu ngân sách nhà nước (thuế, phí, lệ phí) được thanh toán qua phương thức không dùng tiền mặt, đạt tỷ lệ hơn 90%; tỷ lệ số doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân, hộ gia đình thanh toán tiền nước đạt 80%; tỷ lệ tổ chức, cá nhân, hộ gia đình thực hiện thanh toán tiền điện, đạt trên 60%... Đồng thời, chỉ tiêu chính quyền số của huyện đã hoàn thành 8/13 chỉ tiêu; chỉ tiêu kinh tế số hoàn thành 4/5 chỉ tiêu; chỉ tiêu xã hội số hoàn thành 4/11 chỉ tiêu.
Ông Đỗ Mạnh Hùng, Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện Ba Chẽ, cho biết: Để tiếp tục thực hiện lộ trình chuyển đổi số toàn diện, huyện Ba Chẽ bám sát vào các chỉ đạo, hướng dẫn của tỉnh, từ đó tăng cường công tác chỉ đạo thực hiện chuyển đổi số đến các phòng, ban, đơn vị liên quan đảm bảo thực chất, hiệu quả và chất lượng; tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng, bảo đảm 100% CBCCVC được tập huấn, bồi dưỡng về chuyển đổi số, kỹ năng số; tuyên truyền nhận thức sâu rộng cho người dân trên địa bàn về lợi ích của chuyển đổi số trong đời sống để người dân thực hiện... Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh triển khai thực hiện Đề án 06 phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia trên địa bàn huyện đảm bảo chất lượng, hiệu quả, đúng kế hoạch đề ra.
Bài, ảnh: Cao Minh Đức
Chuyển đổi số ở Than Vàng Danh
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 bùng nổ, chuyển đổi số là xu thế tất yếu đối với sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp ngành Than, trong đó có Công ty CP Than Vàng Danh - Vinacomin. Với lợi thế từ hạ tầng công nghệ thông tin sẵn có và sự chủ động, tích cực trong áp dụng những tiến bộ của thời đại công nghệ số vào các khâu, quy trình công việc, Than Vàng Danh hiện đang có nhiều điều kiện thuận lợi để tiến tới xây dựng mô hình mỏ hầm lò thông minh trong tương lai.
Đầu ca 1, những người thợ lò của Phân xưởng Khai thác 5, Công ty CP Than Vàng Danh - Vinacomin tập trung để nhật lệnh sản xuất tại nhà giao ca. Trong khoảng thời gian chừng 30 phút, các tổ đội sản xuất đã được quản đốc, phó quản đốc giao ca cắt việc chi tiết, rõ ràng.
Phó Quản đốc Phân xưởng - anh Trần Mạnh Tiến cho biết, từ ngày 27/7/2022, đơn vị đã được áp dụng phương pháp giao ca nhật lệnh bằng phần mềm ca lệnh sản xuất. Phần mềm này đã được Công ty cài đặt trên máy tính của đơn vị và cả điện thoại di động (app mobi), được mã hóa đầy đủ nội dung nhận diện các nguy cơ gây mất an toàn, biện pháp loại trừ nguy cơ đối với từng công việc cụ thể và định mức lương cho từng công việc. Sử dụng phần mềm, cán bộ phân xưởng không phải viết lệnh bằng tay như trước, cán bộ chỉ huy sản xuất có nhiều thời gian hơn để trực tiếp chỉ đạo sản xuất tại hiện trường.
Trên cơ sở theo dõi qua phần mềm, lãnh đạo quản lý và các phòng ban liên quan, dù không có mặt trực tiếp tại hiện trường nhưng cũng có thể nắm bắt được các thông tin chi tiết đối với mỗi phân xưởng, kịp thời chỉ đạo, đôn đốc, hướng dẫn phân xưởng triển khai nhiệm vụ đạt hiệu quả cao.
Còn tại Phòng Vật tư, quy trình cấp, phát vật tư cho các đơn vị khối sản xuất cũng đang được những nhân viên ở đây giải quyết một cách nhanh chóng, thuận tiện trên hệ thống phần mềm Quản lý vật tư. Theo chị Đặng Thị Hương, phòng Vật tư Công ty CP Than Vàng Danh, trước năm 2018, doanh nghiệp áp dụng quy trình nhập - xuất vật tư cũng như đăng ký nhu cầu sử dụng vật tư thủ công.
Theo đó, công nhân các đơn vị khối sản xuất trong khu vực khai trường sẽ lập nhu cầu sử dụng vật tư trên bảng tính Excel, ký xác nhận của Quản đốc phân xưởng, sau đó di chuyển quãng đường trên 17km từ khai trường sản xuất đến Trụ sở điều hành của Công ty để ký duyệt ở các phòng kỹ thuật chủ quản. Các phòng này sẽ rà soát, căn cứ nhu cầu thực tế để duyệt và ký xác nhận nhu cầu sử dụng vật tư của các đơn vị khối sản xuất. Trên cơ sở tham mưu của các phòng chủ quản, một đồng chí Phó Giám đốc Công ty sẽ ký xác nhận cấp vật tư theo nhu cầu sử dụng của đơn vị. Khâu thủ tục giấy tờ này thường sẽ phải giải quyết trong khoảng 1 tuần làm việc, đôi khi lâu hơn do nhiều yếu tố khách quan.
Từ khi Công ty áp dụng phần mềm Quản lý vật tư, mọi công đoạn nói trên đều được rút ngắn, chỉ còn vài phút thao tác trên máy tính. Thời gian cấp phát vật tư được thực hiện nhanh chóng, kịp thời đáp ứng nhiệm vụ sản xuất hàng ngày của đơn vị và dự án sản xuất lớn của mỏ.
Được biết, từ năm 2003 đến nay, Công ty CP Than Vàng Danh đã và đang áp dụng 14 phần mềm nghiệp vụ, trong đó có phần mềm ca lệnh sản xuất và hóa đơn điện tử đã chuyển đổi số thành công. Hiện nay, Công ty đang triển khai đồng bộ hóa dữ liệu các phần mềm này trên hệ thống nội bộ, từng bước kết nối liên thông với cơ quan Tập đoàn. Các hệ thống dây chuyền thiết bị sản xuất đang được cơ giới hóa, tự động hóa cũng là một yếu tố thuận lợi với Than Vàng Danh trong lộ trình chuyển đổi số.
Ông Nguyễn Văn Dũng, Phó Giám đốc Công ty cho biết, trong lộ trình chuyển đổi số từ nay đến năm 2025, tầm nhìn 2030, doanh nghiệp sẽ tiếp tục tự động hóa tối đa các khâu của dây chuyền sản xuất than, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hạ tầng công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu cuộc cách mạng số. Các phần mềm chuyên ngành mỏ cũng sẽ được tiếp tục nghiên cứu, áp dụng, nhân rộng và triển khai đồng bộ hóa mọi dữ liệu trên hệ thống nội bộ, kết nối các khâu của quy trình quản lý, điều hành sản xuất.
Nhờ đẩy mạnh cơ giới hóa, tự động hóa và chuyển đổi số, Than Vàng Danh vẫn luôn là điểm sáng của Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam trong sản xuất và thực hiện chủ trương xây dựng mỏ hầm lò thông minh, hiện đại, ít người, trả lương cao.
Hoàng Thị Hải Yến
PHỔ BIẾN KIẾN THỨC
Top 7 vật dụng chứa nhiều vi khuẩn nhất trong nhà
Khăn lau bếp
Khăn lau bếp là vật dụng quen thuộc, không thể thiếu trong mỗi gia đình. Nhiều gia đình có thường sử dụng khăn lau bếp đến khi rách, bẩn đen mới thay mới. Nhiều nghiên cứu cho thấy, một chiếc khăn lau bếp nhỏ chứa rất nhiều vi khuẩn có hại như vi khuẩn E.Coli, Candida Albicans… gây hại cho sức khỏe. Đây thực sự là “ổ vi khuẩn” nếu không được vệ sinh đúng cách.
Để loại bỏ vi khuẩn, cách tốt nhất là bạn ngâm khăn trong nước tẩy trùng trong 15 phút, sau đó giặt khăn với xà bông và đem đi phơi nắng để tiêu diệt vi khuẩn. Thay khăn mỗi tháng một lần. Ngoài ra, nên sử dụng khăn chuyên dụng để lau các đồ vật khác nhau.
Đồ chơi trẻ em
Các nhà nghiên cứu đã phát hiện có rất nhiều vi khuẩn trên đồ chơi trẻ em.
Theo nghiên cứu, hầu hết đồ chơi nên được làm sạch hằng tuần nếu bé chơi thường xuyên, nhưng nếu bé bị bệnh, tốt nhất là nên làm sạch đồ chơi của bé hằng ngày cho đến khi bé khỏi bệnh.
Tay nắm cửa
Theo nghiên cứu trên tập san khoa học Applied and Environment Microbiology (Mỹ) cho thấy, tay nắm cửa nhìn sạch sẽ ấy lại là nơi tích tụ nhiều vi khuẩn nhất trong nhà bạn – bẩn gấp 44 lần so với bồn cầu.
Lời khuyên dành cho mọi người là hãy thường xuyên rửa tay và giữ khô ráo. Đồng thời cần lau rửa nắm cửa thường xuyên để đảm bảo nó luôn sạch sẽ, không cho vi khuẩn có cơ hội tấn công gia đình bạn. Càng nhiều người chạm vào thì tay nắm cửa càng bẩn, cho nên cần phải hết sức lưu ý.
Điều khiển tivi
Một cuộc khảo sát của nhà bán lẻ Tap Warehouse của Anh phối hợp với tiến sĩ Amanda Jones, chuyên nghiên cứu về vi sinh vật, tại Đại học Northumbria (Anh), để xác định đâu là vật dụng bẩn nhất trong nhà.
Được sử dụng bởi nhiều người, với nhiều lần, điều khiển tivi đặc biệt dễ bị nhiễm vi khuẩn.
Nếu bạn vừa ăn vừa xem tivi, tỷ lệ còn cao hơn. Tiến sĩ Jones, chỉ ra tụ cầu và liên cầu thường sinh sôi trên điều khiển tivi.
Hãy sử dụng khăn tẩm cồn để lau điều khiển tivi.
Thảm cửa
Ngay khi bước vào cửa, đây quả thực là nơi bạn dễ bỏ qua nhất. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng 96% đế giày có chứa mầm bệnh như Escherichia coli, do đó nên khử trùng mỗi tuần một lần, khi thay giày không nên để thức ăn, ba lô lên miếng lót chân.
Thớt
Một số nghiên cứu cho thấy lượng vi khuẩn ở thớt nhiều gấp 200 lần vi khuẩn trên bệ toilet. Bạn cần trang bị 2 chiếc thớt trong nhà, một chiếc để chặt, thái đồ sống và chiếc khác dành cho đồ chín. Cần cọ rửa kỹ và làm khô thớt sau khi rửa. Đối với thớt thái thực phẩm nấu chín, rau củ ăn sống... bạn có thể tẩy sạch bằng nước chanh hoặc hơ thớt trên bếp gas nóng để tiêu diệt các vi khuẩn còn sót lại.
Thùng rác nhà bếp, bồn rửa bát
Các lỗ lọc của thùng rác nhà bếp và bồn rửa bát là một trong những nơi sinh sôi phổ biến của vi khuẩn, vì hai nơi này sẽ tích tụ rất nhiều cặn thức ăn nên cũng cần được vệ sinh thường xuyên.
Nguồn: Sưu tầm
5 sai lầm khi vệ sinh răng miệng
Răng miệng luôn là vấn đề được mọi người quan tâm đến, nếu làm sạch răng miệng không đúng cách sẽ gây ra các bệnh về răng miệng như: Hôi miệng, viêm lợi, sâu răng... gây mất tự tin khi giao tiếp.
Chỉ đánh răng sau bữa sáng
Nhiều người thường có thói quen đánh răng sau bữa sáng nhằm loại bỏ mùi thức ăn, giữ cho hơi thở có mùi thơm tho hơn. Tuy nhiên, đây là một quan điểm sai lầm mà bạn nên tránh.
Qua một giấc ngủ dài, quá trình sản xuất nước bọt bị chậm lại, dẫn đến lượng vi khuẩn trong miệng tăng lên. Điều này khiến cho hơi thở thường nặng mùi sau khi thức dậy.
Vì vậy, cách hiệu quả nhất là đánh răng trước khi ăn sáng và sau bữa ăn sáng, bạn có thể súc miệng bằng nước để loại bỏ những mảnh vụn thức ăn còn sót lại.
Đánh răng trước bữa sáng được nghiên cứu chứng minh có tác dụng kích thích tiết nước bọt hiệu quả trong 5 phút. Việc này rất có lợi bởi nước bọt sẽ giúp phân hủy thức ăn và tiêu diệt vi khuẩn gây hại trong miệng một cách tự nhiên.
Đánh răng quá lâu
Nếu bạn đánh răng quá lâu hơn 2 phút/ lần và hơn 2 lần/ngày thì bạn đã vô tình làm tổn thương răng và lợi.
Bởi vì trong kem đánh răng có chứa 50% chất mài mòn giúp loại bỏ mảng bám khỏi răng và vôi răng giúp giảm tối thiểu sâu răng. Đánh răng quá lâu là bạn đã tạo điều kiện cho chất mài mòn hoạt động mạnh mẽ, sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến men răng.
Dùng tăm xỉa răng
Những que tăm xỉa răng sẽ làm hở khe răng và hư nướu răng. Một số loại tăm xỉa răng làm từ chất tẩy trắng công nghiệp, không an toàn cho sức khỏe.
Hãy tập thói quen sử dụng chỉ nha khoa sau khi đánh răng hoặc sau khi ăn để đánh bay những mảng bám mà bàn chải không thể nào với tới được.
Bỏ qua bước làm sạch lưỡi
Trên mặt lưỡi có các hạt vị giác li ti, tạo điều kiện cho vi khuẩn đọng lại, gây mùi hôi trong miệng. Chính vì vậy, bạn nên chú ý vệ sinh lưỡi bằng cách sử dụng bàn chải lưỡi hoặc dụng cụ cạo lưỡi nhằm làm sạch từ trong ra ngoài.
Tốt nhất nên cạo lưỡi như một biện pháp chăm sóc răng miệng thường quy, nên thực hiện sau khi đánh răng. Tần suất phù hợp nhất là nên cạo lưỡi 1- 2 lần mỗi ngày, vào buổi sáng và tối trước khi đi ngủ.
Đánh răng sau khi ăn xong
Trong thức ăn có chứa rất nhiều chất bào mòn men răng như đường, axit, … vì vậy nếu ta đánh răng ngay sau khi ăn, các lớp men răng chưa kịp tái tạo để bảo vệ răng sẽ làm răng yếu đi và dễ bị đau nhức chân răng.
Bạn nên đánh răng trước khi ăn sáng, và đánh răng sau các bữa ăn chính 1 tiếng đồng hồ.
Nguồn: Sưu tầm
TIN HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Thành lập Ban Chỉ đạo triển khai thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TU của BCH Đảng bộ tỉnh về phát triển KH&CN
Sở KH&CN đã ban hành Quyết định số 174/QĐ-SKHCN, ngày 12/6/2023 “Thành lập Ban Chỉ đạo triển khai thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TU của BCH Đảng bộ tỉnh về phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo đế năm 2030; Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 23/11/2023 của bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đồng bằng Sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Quyết định số 80/QĐ-TTg ngày 11/02/2023 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2025.
Theo đó, đồng chí Phạm Xuân Đài, Giám đốc Sở KH&CN làm Trưởng ban; 02 đồng chí Phó giám đốc Sở làm Phó trưởng Ban và 07 thành viên Ban Chỉ đạo là Trưởng và Phó các phòng, đơn vị thuộc Sở.
Nhiệm vụ của Ban Chỉ đạo là chỉ đạo, xây dựng, ban hành chương trình, kế hoạch 5 năm, hàng năm của Sở KH&CN thực hiện các nội dung liên quan đến hai Nghị quyết và một Quyết định nêu trên; Đôn đốc kiểm tra, đánh giá, theo dõi, tổng hợp kết quả tình hình thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp thực hiện Nghị quyết, Quyết định nêu trên. Nhiệm vụ cụ thể của các thành viên Ban Chỉ đạo do Trưởng Ban phân công và chịu trách nhiệm trước Trưởng ban Chỉ đạo.
Hương Anh
Khoa học công nghệ nâng tầm giá trị sản phẩm OCOP Quảng Ninh
Tiếp tục phát triển sản phẩm OCOP theo chiều sâu, nâng cao chất lượng, các ngành chức năng của tỉnh đã đẩy mạnh hỗ trợ, tuyên truyền tới các doanh nghiệp, HTX ứng dụng KHCN vào sản xuất.
Theo lãnh đạo Sở KH&CN, trên cơ sở các nội dung nhiệm vụ đã xác định, Sở chỉ đạo các phòng, đơn vị trực thuộc tăng cường các nhiệm vụ ứng dụng KHCN đối với các sản phẩm OCOP. Trong đó tập trung hướng dẫn các đơn vị, tổ chức, cá nhân về ghi nhãn hàng hóa, đăng ký mã số mã vạch; truy xuất nguồn gốc sản phẩm; xác lập và thực thi quyền sở hữu trí tuệ; hỗ trợ chuyển giao, ứng dụng KHCN trong sản xuất… Đồng thời phối hợp với Văn phòng Điều phối NTM tỉnh rà soát, đánh giá các sản phẩm được cấp sao; tổ chức chương trình cà phê công nghệ với chủ đề "Ứng dụng công nghệ nâng tầm giá trị sản phẩm OCOP Quảng Ninh", trong đó có các nội dung liên quan đến công nghệ chế biến, đóng gói, bảo quản các sản phẩm OCOP, sản phẩm nông nghiệp, thủy sản; vai trò của thương mại điện tử đối với sự phát triển sản phẩm OCOP…
Đến nay có nhiều doanh nghiệp, HTX áp dụng KHCN trong các khâu sản xuất, chế biến, bảo quản, đóng gói và tiêu thụ sản phẩm. Từ đó góp phần nâng cao chất lượng, đa dạng hóa mẫu mã, nâng tầm giá trị sản phẩm trên thị trường, chiếm được lòng tin của người tiêu dùng trong và ngoài tỉnh.
Hương Anh