Bản tin Khoa học và Phát triển số 04 năm 2023

30/11/2023 09:10

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

Quảng Ninh thúc đẩy ứng dụng, chuyển giao công nghệ và đổi mới sáng tạo

 

Trong những năm qua, hoạt động khoa học và công nghệ (KH&CN) luôn nhận được sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân tỉnh, Uỷ ban nhân dân tỉnh với nhiều giải pháp đột phá đã góp phần đẩy mạnh phát triển, ứng dụng KH&CN; tăng năng suất, chất lượng và năng lực cạnh tranh hội nhập quốc tế, phát triển bền vững và bảo vệ môi trường. Đặc biệt, ưu tiên ứng dụng, chuyển giao công nghệ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo để nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trong các ngành, lĩnh vực có tiềm năng, thế mạnh phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững.

Sở KH&CN ký kết Chương trình phối hợp hoạt động KH&CN và đổi mới sáng tạo năm 2023 với UBND huyện Tiên Yên.

Từ năm 2020 đến nay, 112 nhiệm vụ khoa học và công nghệ đã được triển khai. Kết quả các nhiệm vụ KH&CN được ứng dụng vào thực tiễn, mang hiệu quả thiết thực. Trong lĩnh vực quản lý nhà nước, các nhiệm vụ đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp để thúc đẩy, nâng cao các chỉ số: R&D, năng lực đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp; nâng cao chỉ số năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP); thúc đẩy Hệ sinh thái Khởi nghiệp. Trong lĩnh vực nông nghiệp, các nhiệm vụ ứng dụng kỹ thuật sản xuất giống các đối tượng chủ lực, có thế mạnh, có giá trị kinh tế cao: Sò huyết, hàu Thái Bình Dương, cây Hồi, Sồi phảng…đáp ứng nhu cầu phát triển nông nghiệp bền vững; cung cấp nguồn giống đảm bảo chất lượng; bảo tồn các nguồn gen quý hiếm như ốc đĩa, cây bảy lá một hoa, nấm chẹo, lợn Móng Cái; Trong lĩnh vực y tế, tập trung chuyển giao công nghệ từ các bệnh viện tuyến Trung ương giúp các bệnh viện tuyến tỉnh làm chủ kỹ thuật mới trong khám và điều trị góp phần tiết kiệm thời gian, chi phí của bệnh nhân và giảm tải cho bệnh viện tuyến Trung ương: trong khám và điều trị ung thư (ung thư đầu cổ, ưng thư đường tiêu hoá); kỹ thuật xạ hình tưới máu cơ tim; điều trị chảy máo não thất có giãn não thất cấp; kỹ thuật sàng lọc 03 bệnh rối loạn chuyển hóa bẩm sinh bằng máu gót chân...

Đến nay, Quảng Ninh có 24 doanh nghiệp KH&CN, đứng thứ tư toàn quốc sau thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và Thanh Hóa. 80 doanh nghiệp tiềm năng được lựa chọn để phát triển thành doanh nghiệp KH&CN. Đã xây dựng kế hoạch hỗ trợ cho các doanh nghiệp tiềm năng về dây chuyền công nghệ tiên tiến, chuyển giao công nghệ mới, đào tạo, quản trị, vận hành doanh nghiệp... nhằm phát triển các sản phẩm mới, có sức cạnh tranh trên thị trường. Trong số 24 tổ chức KH&CN đã được thành lập, bao gồm 17 tổ chức KH&CN ngoài công lập và 07 tổ chức KH&CN công lập. Đã xây dựng và hình thành Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại thị xã Đông Triều và Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao cấp tỉnh về thủy sản tại Đầm Hà. Tỉnh đã duy trì Trạm khai thác thông tin và dịch vụ sở hữu công nghiệp (IP.Platform)’ hướng dẫn 597 lượt tổ chức, cá nhân kết nối, tư vấn khai thác, phát triển các sáng chế phục vụ phát triển sản xuất; đăng ký bảo hộ, gia hạn quyền sở hữu công nghiệp cho các sản phẩm.

Dấu ấn nổi bật trong hoạt động KH&CN gần đây là cuối tháng 9/2023, tỉnh Quảng Ninh phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức sự kiện cấp quốc gia Kết nối công nghệ và đổi mới sáng tạo Việt Nam năm 2023 (Techconnect and Innovation VietNam 2023) tại Quảng Ninh. Đây là sự kiện khoa học và công nghệ quy mô quốc gia, là cầu nối thúc đẩy hợp tác đầu tư, nghiên cứu ứng dụng, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo. Sự kiện đã thu hút khoảng 7.000 lượt khách tham quan. Sự kiện có qui mô 146 gian trình diễn của 90 đơn vị với 460 công nghệ, sản phẩm công nghệ, thiết bị máy móc đến từ các Doanh nghiệp, Viện nghiên cứu, trường đại học, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Qua các diễn đàn, tiêu điểm công nghệ được tổ chức tại sự kiện, số lượng doanh nghiệp được kết nối cung cầu công nghệ là 40 đơn vị trong các lĩnh vực: Công nghệ thông tin, tiết kiệm năng lượng, chế biến nuôi trồng thủy hải sản, cơ khí chế tạo, nông nghiệp công nghệ cao...; 16 biên bản, thỏa thuận hợp tác đã ký kết. Sự kiện đã tạo được không khí sôi động, thể hiện sự quyết tâm và tinh thần chung sức thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo và phát triển công nghệ, hợp tác đầu tư, nghiên cứu ứng dụng từ khối cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội trong, ngoài nước. Đồng thời đã để lại những dấu ấn tốt đẹp trong lòng người dân, doanh nghiệp và du khách về một Quảng Ninh năng động, sáng tạo và phát triển.

Trong bối cảnh Việt Nam tận dụng xu thế hợp tác, hội nhập, cơ hội mới và công nghệ mới của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 mang lại và tham gia sâu rộng, có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu, Tỉnh uỷ, UBND tỉnh tiếp tục quan tâm đến ứng dụng, chuyển giao công nghệ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo trên địa bàn tỉnh. Ngày 28/4/2023, BCH Đảng bộ tỉnh ban hành Nghị quyết số 13-NQ/TU về phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo tỉnh Quảng Ninh đến năm 2030. Theo đó, phấn đấu đến năm 2030, Quảng Ninh thuộc nhóm các địa phương đi đầu cả nước về ứng dụng, chuyển giao khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, với tiềm lực, trình độ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đạt mức tiên tiến ở một số lĩnh vực quan trọng; trình độ, năng lực công nghệ, đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp và ở một số ngành, lĩnh vực đạt trình độ khu vực, quốc gia, quốc tế; khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo phát triển vững chắc, thực sự trở thành động lực tăng trưởng kinh tế, góp phần xây dựng Quảng Ninh trở thành tỉnh kiểu mẫu, giàu đẹp, văn minh, hiện đại, phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững gắn với bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh; Tiếp đến, ngày 05/5/2023, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ ban hành Chương trình hành động số 30-CTr/TU thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 30/01/2023 của Bộ Chính trị về phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học phục vụ phát triển bền vững đất nước trong tình hình mới.

GĐ Sở KHCN Phạm Xuân Đài thăm dây chuyền sản xuất của Công ty CP Gốm Đất Việt.

Để đạt được mục tiêu đến năm 2030, “Quảng Ninh thuộc nhóm các địa phương đi đầu cả nước về ứng dụng, chuyển giao khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, với tiềm lực, trình độ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đạt mức tiên tiến ở một số lĩnh vực quan trọng”, thời gian tới, ngành KH&CN sẽ tập trung triển khai một số nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm sau:

Tập trung tham mưu triển khai Nghị quyết số 13-NQ/TU ngày 28/4/2023 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030; Quyết định số 80/QĐ-TTg ngày 11/2/2023 của Thủ tướng Chính phủ về Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; Chương trình hành động số 30-CTr/TU thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 30/01/2023 của Bộ Chính trị về phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học phục vụ phát triển bền vững đất nước trong tình hình mới.

Tiếp tục rà soát, trình ban hành một số cơ chế, chính sách đủ mạnh và phù hợp để khuyến khích phát triển hoạt động KH&CN; phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ; huy động mọi nguồn lực tập trung phát triển, nâng cao tiềm lực KH&CN và đổi mới sáng tạo; nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Quỹ phát triển KH&CN tỉnh.

Hoàn thiện, trình phê duyệt các dự án, đề án, chương trình KH&CN trọng tâm: Khu trình diễn, giới thiệu, mô hình, thực nghiệm ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, lưu trữ nguồn gen tại Tiên Yên; các Khu Khám phá khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo tại Hạ Long, Quảng Yên, Vân Đồn, Móng Cái; Nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động các phòng thí nghiệm, kiểm định của tỉnh đáp ứng nhu cầu kiểm định, kiểm nghiệm về chất lượng sản phẩm, hàng hóa, môi trường của người dân, doanh nghiệp và phục vụ công tác quản lý nhà nước.

Tăng cường nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo có trọng tâm, trọng điểm phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững, bảo đảm vững chắc quốc phòng - an ninh trong các lĩnh vực: công nghiệp chế biến chế tạo, sản xuất điện, khai khoáng, du lịch, thương mại, logistics, tài chính, nông nghiệp, kinh tế biển, cảng biển, cải cách hành chính, quản lý nhà nước, y tế, giáo dục, văn hóa, an ninh, bảo vệ môi trường, công nghiệp công nghệ thông tin và truyền thông, xây dựng chính quyền điện tử hướng tới chính quyền số và xây dựng đô thị thông minh... Đẩy mạnh thương mại hoá kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, ươm tạo và đổi mới công nghệ.

Đẩy mạnh hợp tác, liên kết quốc tế về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Theo đó sẽ tăng cường phối hợp với các trường đại học, cơ sở nghiên cứu nhằm huy động nguồn lực, công nghệ phù hợp với điều kiện địa phương. Tích cực tham gia các hoạt động hợp tác quốc tế thúc đẩy kết nối cung cầu công nghệ, nhất là công nghệ sạch, tiên tiến, tiết kiệm năng lượng, thân thiện với môi trường.

Ngành KH&CN Quảng Ninh đã và đang quyết tâm, quyết liệt thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm nêu trên để thật sự giúp doanh nghiệp, người dân ứng dụng, chuyển giao công nghệ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo nâng cao năng suất lao động và chất lượng cuộc sống. Qua đó, góp phần xây dựng Quảng Ninh trở thành điểm đến của công nghệ và đổi mới sáng tạo, thu hút đầu tư và sớm trở thành tỉnh kiểu mẫu, giàu đẹp, văn minh, hiện đại, phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững gắn với bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh. 

Hương Anh

 

Quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ: nền tảng thúc đẩy kinh tế - xã hội

 

Quản lý nhà nước hiệu quả với nhiều cơ chế, chính sách linh hoạt, phù hợp đã mở đường cho hoạt động KH&CN phát triển, trở thành nền tảng thúc đẩy kinh tế - xã hội đi lên. 

 

Để tạo động lực cho KH&CN và đổi mới sáng tạo bứt phá, ngành KH&CN tỉnh đã tham mưu cho tỉnh ban hành hàng loạt quyết sách để hỗ trợ, tiếp sức cho các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp trong hoạt động KH&CN, qua đó, tạo môi trường thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Tiêu biểu như: Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; hỗ trợ tổ chức, cá nhân về Sở hữu công nghiệp, xây dựng tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm; quy định quản lý một số hoạt động đo lường trên địa bàn tỉnh; hỗ trợ chuyển giao KHKT trong liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; quy định về quản lý  nhiệm vụ KH&CN sử dụng ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh; quy định định mức xây dựng, phân bổ dự toán kinh phí đối với nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh có sử dụng ngân sách nhà nước… Đặc biệt sự ra đời của các Nghị quyết chuyên đề như: Nghị quyết số 04-NQ/TU ngày 5/5/2012, Nghị quyết số 07-NQ/TU ngày 13/3/2017 và Nghị quyết số 13-NQ/TU ngày 28/4/2023 về phát triển KHCN đã tạo sức bật mạnh mẽ cho hoạt động KH&CN trên địa bàn tỉnh.

Cùng với đó, hoạt động quản lý nhà nước liên quan đến KH&CN được tăng cường, nhất là ở các lĩnh vực như: nhiệm vụ KH&CN, đo lường, sở hữu trí tuệ, an toàn bức xạ, hạt nhân.. Cải cách thủ tục hành chính được quan tâm, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh, chuyển giao, ứng dụng, đổi mới công nghệ; hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo được phát triển; kết nối cung - cầu công nghệ, phát triển thị trường và doanh nghiệp khoa học công nghệ; nâng cao năng lực tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4...

Để đảm bảo hoạt động KH&CN của tỉnh tiếp tục được đẩy mạnh, phát huy hiệu quả trong mọi lĩnh vực, theo lãnh đạo Sở KH&CN tỉnh: Sở sẽ tăng cường hoạt động quản lý Nhà nước về KH&CN; đẩy mạnh cải cách hành chính, đặc biệt là thủ tục hành chính; rút ngắn quy trình xử lý, đơn giản hóa nội dung hồ sơ, giảm thời gian thực hiện thủ tục hành chính. Nâng cao ý thức, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức trong thực thi nhiệm vụ.

Sở KH&CN kiểm tra việc áp dụng các hệ thống quản lý tiên tiến tại Công ty CP Chế tạo máy (Vinacomin) - Ảnh: Thu Hương

Cùng với đó là tiếp tục rà soát, trình ban hành một số cơ chế, chính sách đủ mạnh và phù hợp để khuyến khích phát triển hoạt động KH&CN; huy động mọi nguồn lực tập trung phát triển, nâng cao tiềm lực KH&CN và đổi mới sáng tạo; nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Quỹ phát triển KH&CN tỉnh. Hoàn thiện, trình phê duyệt các dự án, đề án, chương trình KH&CN trọng tâm; tăng cường nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học gắn với phát triển các ngành, lĩnh vực trọng tâm như công nghiệp chế biến, chế tạo; chuyển đổi số; kinh tế biển; du lịch, dịch vụ; nông nghiệp…

Trong hoạt động nghiệp vụ chuyên môn, ngành sẽ tiếp tục chỉ đạo nâng cao chất lượng thẩm tra, thẩm định, giám định công nghệ và chuyển giao công nghệ các dự án đầu tư. Đẩy mạnh công tác thanh, kiểm tra hoạt động KH&CN, trong đó tập trung vào thanh tra, kiểm tra về đo lường, chất lượng sản phẩm hàng hóa để bảo vệ sản xuất và bảo vệ người tiêu dùng… Đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng suất, chất lượng để đảm bảo cạnh tranh trong quá trình hội nhập.

Ngành cũng tiếp tục tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế nhằm tiếp thu kinh nghiệm về quản lý; tiếp cận, triển khai công nghệ phù hợp với đặc thù và điều kiện của địa phương; trình UBND tỉnh dành kinh phí thích ứng cho các hoạt động khảo sát, học tập kinh nghiệm về KH&CN.

Nguyễn Thị Hồng Ngọc

 

 

HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

 

Nền tảng chủ chốt trong việc chuyển đổi căn bản lề lối, phương thức làm việc

 

Trong tiến trình chuyển đổi số toàn diện, Quảng Ninh xác định trục Chính quyền số sẽ là nền tảng chủ chốt, tạo cơ sở vững chắc trong việc chuyển đổi căn bản lề lối, phương thức làm việc, nhất là trong hoạt động lãnh đạo của các cấp ủy và tổ chức đảng; quản lý, điều hành của chính quyền; hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và phương thức sống, làm việc của người dân.

Công dân sử dụng hệ thống mã QR để thanh toán trực tuyến không dùng tiền mặt tại Trung tâm Hành chính công TP Hạ Long.

Với quyết tâm trở thành mô hình mẫu về chuyển đổi số toàn diện cấp tỉnh, trong suốt thời gian qua, Quảng Ninh đã kiên quyết, kiên trì, liên tục triển khai toàn diện các nội dung nhiệm vụ xây dựng Chính quyền số trên cơ sở kế thừa những kết quả đạt được của Đề án Chính quyền điện tử, thành phố thông minh và dữ liệu số đã đạt được từ giai đoạn trước. Trong đó, tỉnh ưu tiên đổi mới, sáng tạo trong công tác cải cách hành chính, cung cấp dịch vụ công trực tuyến trên Cổng dịch vụ công quốc gia để phục vụ người dân, doanh nghiệp.

Đến thời điểm hiện tại, toàn bộ 1.367 (đạt 100%) dịch vụ công trực tuyến cấp tỉnh đã được cung cấp trên Cổng dịch vụ công của tỉnh. Trong đó có 908 thủ tục hành chính (TTHC) được cung cấp dịch vụ công trực tuyến toàn trình (đạt 66,5%). Ở cấp huyện, cũng đã có 254 dịch vụ công trực tuyến được đồng bộ lên Cổng dịch vụ công, trong đó 160 TTHC đủ điều kiện cung cấp dịch vụ trực tuyến toàn trình. Cấp xã đã cung cấp 111 dịch vụ công trực tuyến, trong đó có 53 TTHC cung cấp dịch vụ công trực tuyến toàn trình. Đồng thời, tỉnh cũng đã hoàn thành việc tích hợp, kết nối 1.248 dịch vụ công trực tuyến của các sở, ban, ngành lên Cổng dịch vụ công quốc gia - nằm trong tốp đầu cả nước về số lượng dịch vụ công trực tuyến được cung cấp và số hồ sơ trực tuyến phát sinh. Đến tháng 9/2023, số hồ sơ trực tuyến tính riêng trên Cổng dịch vụ công cấp tỉnh là 33.040/33.547 hồ sơ (98,3%); số hồ sơ trực tuyến trên cả Cổng dịch vụ công của tỉnh và các phần mềm chuyên ngành là 73.294/105.463 hồ sơ (69,5%); số hồ sơ trực tuyến tính riêng trên Cổng dịch vụ công của cấp huyện là 98.785/105.757 hồ sơ (93,5%), số hồ sơ trực tuyến ở cấp xã là 174.794/184.556 hồ sơ (94,7%).

Anh Hoàng Văn Đức, cán bộ quản trị hệ thống Chính quyền điện tử của Trung tâm Hành chính công TP Hạ Long, cho biết: Hiện nay, tại Trung tâm Hành chính công TP Hạ Long, 100% hồ sơ đầu vào và kết quả đầu ra đều đã đủ điều kiện để cung cấp dịch vụ công trực tuyến toàn trình theo đúng quy định; 100% công dân trên địa bàn cũng đã có đầy đủ thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để cán bộ Trung tâm có thể khai thác, phục vụ việc giải quyết TTHC. Hiện Trung tâm đang tích cực phối hợp với các đơn vị cung cấp dịch vụ triển khai cấp chữ ký số cá nhân miễn phí cho công dân, tạo tiền đề giúp công dân thuận lợi trong giải quyết các TTHC trực tuyến. Bám sát sự chỉ đạo của Trung ương, của tỉnh, thời gian tới, Trung tâm Hành chính công TP Hạ Long sẽ tiếp tục đẩy mạnh triển khai, khai thác dữ liệu số, ứng dụng các dịch vụ công trực tuyến toàn trình, hoàn thành các nhiệm vụ trong xây dựng Chính quyền số, tạo nền tảng đẩy mạnh chuyển đổi số toàn diện trên địa bàn để phục vụ phát triển KT-XH.

Cùng với việc đẩy mạnh ứng dụng dịch vụ công trực tuyến, đặc biệt là dịch vụ công trực tuyến toàn trình, hiện Quảng Ninh còn đang tích cực triển khai thực hiện số hoá hồ sơ TTHC từ đầu vào và tái sử dụng kết quả số hoá TTHC. Đến nay, 100% TTHC tiếp nhận trực tiếp tại Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh và qua Cổng dịch vụ công trực tuyến đã được thực hiện số hóa từ hồ sơ đầu vào đến kết quả theo quy trình 5 bước trên môi trường điện tử. Hết tháng 9/2023, ở cấp tỉnh đã thực hiện số hóa trên cả phần mềm chuyên ngành và hệ thống một cửa điện tử được 75.415/105.463 hồ sơ (71,5%); trả 9.656/104.787 kết quả bản điện tử cho tổ chức, công dân (9,2%). Cấp huyện đã thực hiện tiếp nhận và số hoá 99.987/105.003 hồ sơ (95,2%) và trả 66.574/106.069 kết quả bản điện tử cho tổ chức, công dân (62,8%). Cấp xã đã thực hiện tiếp nhận và số hoá 176.749/184.386 hồ sơ (95,9%) và trả 126.390/184.248 kết quả bản điện tử cho tổ chức, công dân (68,6%). Cùng với đó, để tạo sự thuận lợi tối đa cho người dân, doanh nghiệp sử dụng các tiện ích của Chính quyền số, tỉnh cũng đã và đang đẩy mạnh triển khai hệ thống thanh toán điện tử, thanh toán không dùng tiền mặt. Qua 9 tháng đầu năm, đã có gần 9 tỷ đồng tiền phí, lệ phí giải quyết TTHC ở cấp tỉnh được thanh toán bằng hình thức trực tuyến không dùng tiền mặt, đạt gần 90%. Con số này ở cấp huyện là hơn 6 tỷ đồng, đạt trên 95%; ở cấp xã là gần 3 tỷ đồng, đạt gần 45%.

Nhằm tạo sự liên kết, đồng bộ trong hệ thống Chính quyền số của tỉnh với Trung ương, Quảng Ninh cũng là một trong những địa phương tiên phong trong việc triển khai kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các hệ thống thông tin của tỉnh với các hệ thống thông tin của các bộ, ngành, các cơ sở dữ liệu quốc gia để phục vụ chuyển đổi số đồng bộ, thống nhất. Giám đốc Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh Nguyễn Hải Vân cho biết: Đến nay, Quảng Ninh đã hoàn thành việc kết nối với 11/18 cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin quan trọng, nền tảng dữ liệu của quốc gia. Trong đó, nổi bật có thể kể đến Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cổng dịch vụ công quốc gia, Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp… Đối với 7 cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin còn lại, tỉnh cũng sẽ sẵn sàng kết nối, chia sẻ dữ liệu ngay sau khi các hệ thống của bộ, ngành và Trung ương hoàn thành, cho phép kết nối.

Đỗ Minh Hà

 

 

Nhân giống và trồng na QN-D1 thành công tại Quảng Ninh

 

Quảng Ninh được đánh giá là tỉnh có điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu phù hợp để trồng cây ăn quả tập trung trong đó na là loại cây cho hiệu quả kinh tế cao nhất (đạt 200 triệu đồng/ha/năm) so với các loại cây trồng khác. Cây na được trồng chủ yếu tại một số địa phương ở khu vực miền Tây như Uông Bí, Quảng Yên, Đông Triều, Hạ Long với tổng diện tích khoảng 1.113,5 ha.  Quảng Ninh đã thành công bước đầu trong việc nhân giống na QN-D1 bằng phương pháp ghép; trồng, chăm sóc và điều chỉnh cho quả trái vụ nhằm khai thác lợi thế, tăng giá trị sản phẩm từ  kết quả của nhiệm vụ khoa học công nghệ cấp tỉnh.

 

Sau khi thực hiện nhiệm vụ không sử dụng ngân sách đánh giá khả năng sinh trưởng, phát triển của giống na QN-D1 ghép trên gốc na dai tại Quảng Ninh, nhận thấy giống na QN-D1 có nhiều đặc điểm vượt trội so với giống na địa phương, Kỹ sư Nguyễn Khắc Dũng - Giám đốc Trung tâm Khuyến nông (Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) và nhóm nghiên cứu đã đề xuất và được phê duyệt nhiệm vụ khoa học công nghệ cấp tỉnh “Nghiên cứu kỹ thuật nhân giống và hoàn thiện quy trình trồng, chăm sóc na QN-D1”. Nhiệm vụ được thực hiện từ tháng 5/2021 với mục tiêu bổ sung giống mới vào cơ cấu giống cây ăn quả nhằm tạo ra sản phẩm có giá trị, nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp tại Quảng Ninh.

Về nội dung nghiên cứu kỹ thuật nhân giống, nhóm nghiên cứu đã sử dụng phương pháp nhân giống ghép cành; trong đó tập trung thực hiện các thí nghiệm nghiên cứu ảnh hưởng của thời vụ ghép; tiêu chuẩn cành ghép, tiêu chuẩn gốc ghép đến tỷ lệ sống và sinh trưởng của cây sau ghép; xây dựng mô hình vườn ươm giống tại thôn Giếng Đá, xã Tiền An, thị xã Quảng Yên.

Về nội dung nghiên cứu hoàn thiện quy trình quy trình trồng, chăm sóc na QN-D1, nhóm nghiên cứu đã triển khai các thí nghiệm nghiên cứu kỹ thuật ghép cải tạo trên gốc na địa phương; nghiên cứu biện pháp kỹ thuật tạo quả trái vụ; xây dựng mô hình trồng na QN-D1 tại 3 địa phương Đông Triều, Quảng Yên, Hạ Long, quy mô 0,5ha/địa phương.    

Ghép cải tạo na QN-D1 trên gốc na địa phương.

Sau 3 năm triển khai, đến nay nhiệm vụ khoa học đã mang lại những kết quả bước đầu đáng ghi nhận. Kỹ sư Nguyễn Khắc Dũng - chủ nhiệm nhiệm vụ khẳng định: “Hoàn toàn có thể nhân giống na QN-D1 tại Quảng Ninh bằng phương pháp ghép cành với việc sử dụng gốc ghép là na địa phương (na dai, na bở), cành ghép tiêu chuẩn là đoạn cành na QN-D1 bánh tẻ có 3 mắt ngủ, ghép phù hợp nhất vào vụ tháng 6, cho tỷ lệ trên 80%. Để cải tạo vườn na địa phương giai đoạn kinh doanh bằng na QN-D1, có thể sử dụng phương pháp ghép tại vị trí cành cấp 1. Để tạo quả trái vụ, có thể sử dụng biện pháp cắt tỉa cành. Thời điểm tác động vào tháng 7, cắt tỉa 60% tổng số cành, bao quả bằng túi vải trắng. Kết quả cho thu hoạch vào tháng 12 năm trước đến tháng 1 năm sau (dịp Tết Nguyên Đán); mã quả đẹp, quả nhiều thịt, ngọt, thơm; giá bán giới thiệu sản phẩm thời điểm cuối năm 2022 là 150-200 nghìn đồng/kg”. Nhiệm vụ đã xây dựng được vườn ươm giống công suất 1 vạn cây; xây dựng thành công 3 mô hình trình diễn, đây là địa điểm thăm quan, học tập, giới thiệu giống na mới và chuyển giao kỹ thuật cho bà con những khu vực lân cận.

Ông Nguyễn Hồng Khanh - thôn Hổ Lao, xã Tân Việt, thị xã Đông Triều - hộ dân được chọn tham gia xây dựng mô hình trồng thử nghiệm cho biết: “Cây na QN-D1 sinh trưởng nhanh gấp 1,5 lần so với na dai, ít sâu bệnh. Đặc biệt, cây có khả năng phát triển trong điều kiện nhiệt độ thấp nên có thể rải vụ thu hoạch vào dịp tết Nguyên Đán mang lại giá trị kinh tế cao”. Hiện tại diện tích 0,5 ha mô hình trồng thử nghiệm na QN-D1 đang được hộ gia đình ông chăm sóc theo đúng hưỡng dẫn kỹ thuật của cán bộ kỹ thuật Trung tâm Khuyến nông tỉnh và được theo dõi, đánh giá, so sánh với vườn trồng na dai, na bở tại địa phương. Còn Kỹ sư Nguyễn Văn Phú - Trung tâm Khuyến nông tỉnh Quảng Ninh khẳng định: “Na QN-D1 cho năng suất cao (10 tấn/ha); quả to (trọng lượng bình quân 500 gam/quả), ngọt thơm vị dứa (độ Brix 20-25), ít hạt; thịt quả chắc, chịu được vận chuyển nên có tiềm năng xuất khẩu”.

Sau khi thăm thực tế mô hình trong khuôn khổ Hội thảo Giới thiệu giống, kỹ thuật nhân giống và trồng na QN-D1 tại Quảng Ninh, TS. Nguyễn Đức Huy - Học viện Nông nghiệp Việt Nam đánh giá rất cao về những kết quả đạt được của nhiệm vụ. Qua đó, đề nghị Trung tâm Khuyến nông tỉnh thời gian tới tiếp tục xây dựng mô hình, chuyển giao giống, kỹ thuật cho các địa phương thuộc vùng quy hoạch cây ăn quả tập trung của tỉnh, đặc biệt là các địa phương đang xây dựng và thực hiện Đề án cây ăn quả cấp huyện như: Hạ Long, Đầm Hà, Tiên Yên.

Để đạt được những kết quả trên, bên cạnh sự nỗ lực nghiên cứu, triển khai thực hiện nhiệm vụ của Trung tâm Khuyến nông tỉnh Quảng Ninh, Sở Khoa học và Công nghệ, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Quảng Ninh đã luôn đồng hành, sát sao theo dõi, bám sát thực tiễn địa bàn triển khai nhiệm vụ. Đồng thời đôn đốc chỉ đạo, cho ý kiến trao đổi, làm rõ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai nhiệm vụ; định hướng những giải pháp hiệu quả nhằm tháo gỡ khó khăn, nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học. Qua đó, thể hiện rõ vai trò của đơn vị quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ và góp phần hỗ trợ, thúc đẩy đơn vị triển khai thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.

 Bài, ảnh: Hoàng Thị Thế

 

 

Huyện Ba Chẽ đẩy mạnh hoạt động khoa học và công nghệ

 

Nhận thức được tầm quan trọng của khoa học công nghệ trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Thời gian qua, với sự đồng hành của Sở Khoa học và Công nghệ (KH&CN) tỉnh Quảng Ninh cùng với sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, chính quyền huyện Ba Chẽ, hoạt động khoa học công nghệ trên địa bàn huyện đã có nhiều khởi sắc, với nhiều tiến bộ khoa học công nghệ được ứng dụng trong từng ngành, từng lĩnh vực, phù hợp với thực tiễn sản xuất và thế mạnh của địa phương, đóng góp tích cực vào quá trình phát triển của huyện miền núi Ba Chẽ.

 

Huyện Ba Chẽ xây dựng Trà hoa vàng thành sản phẩm OCOP 5 sao cấp Quốc gia.

 

Việc triển khai các mô hình ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất tại các xã, thị trấn trên địa bàn huyện được thực hiện theo hướng tập trung hơn. Một số mô hình tại địa phương đã phát huy hiệu quả, có khả năng nhân rộng. Điển hình như mô hình trồng thử nghiệm giống lúa mới J02 được triển khai trên diện tích 20ha đất, với 102 hộ ở thôn Làng Mô và thôn Tấn Tiến, xã Đồn Đạc tham gia. Sau thời gian trồng thử nghiệm, toàn bộ diện tích 20ha lúa J02 đã cho thu hoạch. Qua đánh giá mô hình cho thấy giống lúa J02 sinh trưởng mạnh, đẻ nhánh khỏe, dễ canh tác, tỷ lệ hạt chắc cao, hạt to, tròn, màu vàng sáng, bông to và ngắn; tỷ lệ hạt lép thấp; cơm mềm, thơm, ngon; có năng suất trung bình cao hơn từ 1,46 tạ/ha so với giống năng suất trung bình của các giống sản xuất đại trà; tổng thu của 1ha lúa J02 gấp 1,2 lần và lãi gấp 3,2 lần so với bình quân các giống khác. Từ kết quả bước đầu của mô hình mang lại đã tạo được động lực lớn cho hoạt động sản xuất tại địa phương, thích hợp cho việc thâm canh tăng năng suất cây lúa, tăng giá trị sản phẩm, tăng giá trị thu nhập trên một đơn vị diện tích canh tác, giải quyết công ăn việc làm tại địa phương, nâng cao thu nhập cho hộ nông dân.

 Bên cạnh đó, các xã, thị trấn trên địa bàn huyện Ba Chẽ ưu tiên đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất và đời sống, từng bước học tập các mô hình phát triển kinh tế tiên tiến nhằm phát triển kinh tế hộ gia đình; triển khai việc ứng dụng các tiến bộ khoa học cho doanh nghiệp trồng rừng trên địa bàn trồng các loại cây lâm sản ngoài gỗ có giá trị cao, đặc biệt là cây ba kích tím; ưu tiên chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ gắn với yêu cầu phát triển của từng ngành, từng lĩnh vực; ứng dụng nhanh thành tựu khoa học công nghệ vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, đặc biệt trong xây dựng nông thôn mới, y tế, bảo vệ môi trường và sản xuất các sản phẩm có thế mạnh của huyện.

 Mô hình ba kích tím của anh Đặng Phi Hùng ở thôn Nam Hả Trong, xã Nam Sơn là một điển hình trong việc ứng dụng khoa học công nghệ vào trồng loại cây dược liệu quý này. Trước kia trên diện tích 0,2 ha hiện đang trồng ba kích, gia đình anh Hùng đã thử trồng một số loại cây trồng khác nhưng hiệu quả mang lại không cao. Đầu năm 2021, gia đình anh Hùng đã mạnh dạn chuyển đổi diện tích đất đó để trồng 2.000 gốc ba kích tím.

 Anh Hùng cho biết: “Những ngày mới bắt tay vào trồng loại cây quý này, tôi cũng khá vất vả từ việc cải tạo đất đến việc trồng và chăm sóc cây sao cho đúng kỹ thuật để cây sinh trưởng, phát triển tốt. Đang loay hoay tìm cách để tròng loại cây này thì tôi được tham gia lớp tập huấn về kỹ thuật trồng cây Ba kích tím và phát triển vùng nguyên liệu gắn với liên kết tiêu thụ sản phẩm  do huyện Ba Chẽ phối hợp với Liên hiệp các Hội Khoa học kỹ thuật tỉnh Quảng Ninh tổ chức, tôi đã áp dụng những kiến thức đã được tập huấn và trồng thành công loại cây ba kích tím này. Hiện tại, 2.000 gốc ba kích tím của gia đình tôi đang phát triển tốt, cây đã bắt đầu cho củ. Với giá bán trên thị trường hiện nay, từ 250 đến 300 nghìn đồng/kg, thì trong vài năm tới đồi ba kích của tôi sẽ có nguồn thu nhập ổn định”.

 Từ mô hình trồng ba kích tím của anh Đặng Phi Hùng khuyến khích bà con trên địa bàn xã Nam Sơn nói riêng, huyện Ba Chẽ nói chung mở rộng sản xuất các loại cây trồng có giá trị kinh tế, phù hợp thổ nhưỡng khí hậu địa phương, góp phần phát triển và giữ gìn thương hiệu ba kích tím Ba Chẽ.

 Ngoài một số mô hình ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, huyện Ba Chẽ còn sử dụng nguồn kinh phí sự nghiệp KH&CN đã được cấp năm 2023 để triển khai các nhiệm vụ khác, điển hình như việc tổ chức đánh giá và phân hạng đối với 7 sản phẩm OCOP, trong đó sản phẩm Hoa trà hoa vàng Ba Chẽ (hoa khô) đề nghị nâng hạng từ 4 sao lên 5 sao; 02 sản phẩm gồm Rượu Ba kích tím và Rượu Nấm lim xanh đề nghị cấp lại 4 sao; 04 sản phẩm mới dự thi đánh giá phân hạng đề nghị cấp 3 sao gồm: Trà hoa vàng (trà túi lọc), Lá trà hoa vàng, Gà đồi dược liệu Ba Chẽ và Thanh Long ruột đỏ. Kết quả, sản phẩm hoa Trà hoa vàng khô của Công ty CP kinh doanh lâm sản Đạp Thanh được đề nghị Hội đồng thẩm định đánh giá, phân hạng sản phẩm tỉnh xét, chấm điểm sản phẩm đạt với số điểm dự kiến nêu trên và trình Hội đồng Trung ương xét, công nhận sản phẩm đạt 5 sao cấp Quốc gia. 03 sản phẩm đạt 4 sao gồm: Rượu Ba kích tím, Rượu Nấm lim xanh Ba Chẽ và Trà hoa vàng túi lọc. 03 sản phẩm đạt 3 sao gồm: Lá Trà hoa vàng; Gà đồi dược liệu Ba Chẽ và Thanh Long ruột đỏ.

Ông Nguyễn Tiến Trường, Trưởng Phòng kinh tế - Hạ tầng huyện Ba Chẽ cho biết: “Hiện nay, huyện Ba Chẽ có 18 sản phẩm OCOP, trong đó có 4 sản phẩm 3 sao cấp huyện, 11 sản phẩm 4 sao cấp tỉnh và 01 sản phẩm đang đề nghị Hội đồng Trung ương xét, công nhận sản phẩm đạt 5 sao cấp Quốc gia. Thời gian qua, huyện Ba Chẽ đã thực hiện có hiệu quả việc xúc tiến thương mại; triển khai chương trình phát triển thương mại điện tử đối với sản phẩm OCOP; tư vấn, hỗ trợ thành lập các hợp tác xã, doanh nghiệp vừa và nhỏ từ các nhóm, hộ gia đình. Thời gian tới, huyện Ba Chẽ sẽ tiếp tục thúc đẩy phát triển các sản phẩm OCOP từ khâu sản xuất, chế biến đến tiêu thụ sản phẩm, đáp ứng các tiêu chuẩn về chất lượng và số lượng hàng hóa. Đồng thời, tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại, kết nối tiêu thụ và quản lý nhằm xây dựng thương hiệu OCOP Ba Chẽ đến gần hơn với người tiêu dùng”.

Nhờ đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ vào phát triển sản xuất trên các lĩnh vực, đến nay, trên địa bàn huyện Ba Chẽ đã có nhiều dự án, mô hình được thực hiện và bước đầu cho kết quả thiết thực. Qua đó mang lại nguồn thu nhập ổn định cho người dân, góp phần quan trọng để huyện miền núi Ba Chẽ từng bước phát triển kinh tế - xã hội và thực hiện hiệu quả các tiêu chí, chỉ tiêu trong xây dựng nông thôn mới nâng cao và nông thôn mới kiểu mẫu theo đúng lộ trình đề ra.

Đoàn Thị Loan

 

 

 

 Sản phẩm hữu ích của một nông dân

 

  Anh Dương Văn Tạo ở phường Hoành Bồ, TP Hạ Long, Quảng Ninh được nhiều người dân trong tỉnh và ngoài tỉnh biết đến với phẩm sáng tạo hữu ích là “Bộ máy khoan rút lõi bê tông” phục vụ hiệu quả, thiết thực cho việc sửa chữa máy điều hòa. Sản phẩm do anh Tạo tự nghiên cứu, chế tạo và cải tiến, hiện đang được người tiêu dùng ưa chuộng.

 

   Mặc dù không được theo học trường lớp đào tạo kỹ thuật nào nhưng với niềm say mê nghiên cứu sửa chữa các đồ dùng sinh hoạt gia đình từ nhỏ nên mình đã luôn tự  mày mò học hỏi để nắm bắt kỹ thuật, sửa chữa hoàn thiện các đồ dùng thiết yếu, phục vụ cuộc sống gia đình. Từ một người thợ sửa xe đạp, rồi chuyển sang thợ sửa chữa điện tử điện lạnh, đến nay mình đã tự nghiên cứu, chế tạo và cải tiến “Bộ máy khoan rút lõi bê tông” phục vụ hiệu quả, thiết thực cho việc sửa chữa máy điều hòa.

 

Anh Dương Văn Tạo giám sát công nhân thực hiện các công đoạn trong dây chuyền sản xuất bộ máy khoan rút lõi bê tông.

 

Anh Dương Văn Tạo chia sẻ: Để nghiên cứu, chế tạo, sản xuất thành công được bộ máy này, mình đã trải qua bao trăn trở với nhiều đêm mất ngủ. Có những đêm khuya, nằm suy nghĩ và nảy ra ý tưởng trong công đoạn của dây chuyền sản xuất các bộ phận của bộ máy khoan rút lõi bê tông,  mình liền bật dậy ngay để ghi chép và thực hành. Do đó hầu hết các máy móc này đều do mình tự sáng chế và cải tiến. Mỗi chiếc máy sẽ đảm nhiệm việc chế tạo 1 bộ phận của máy khoan rút lõi bê tông. Sau khi hoàn thành, các bộ phận sẽ được lắp ráp lại thành một bộ máy khoan rút lõi bê tông hoàn thiện để xuyên tường, luồn ống dẫn ga kết nối tuần hoàn từ dàn nóng sang dàn lạnh của bộ điều hòa.

 

Anh Dương Văn Tạo cùng thợ lắp đặt điều hòa kiểm tra lại bộ máy khoan rút lõi bê tông mới sản xuất xong.

  Cũng theo anh Dương Văn Tạo thì bắt nguồn từ thực tế công việc lắp đặt, sửa chữa máy điều hòa của anh rất vất vả, mất thời gian, công sức, bụi bặm và đôi khi còn nguy hiểm do phải dùng khoan, búa, đục… nên anh Tạo đã nghiên cứu, chế tạo ra sản phẩm sáng tạo hữu ích này. Và bộ giá khoan này có giá thành rẻ, dễ tháo lắp, kích thước nhỏ, gọn nhẹ, mỗi bộ máy khoan rút lõi bê tông trị giá 1,3 triệu đồng nên người tiêu dùng sẽ có cơ hội để sử dụng.

 Sau một thời gian sử dụng và theo dõi bộ máy do mình tự sản xuất thử nghiệm, anh Tạo đã khắc phục những yếu điểm và phát huy thế mạnh của bộ máy, sau đó mới  bắt tay vào sản xuất để cung cấp nhu cầu người sử dụng. Đến nay, các bộ sản phẩm được anh Tạo sản xuất ra, không chỉ cung cấp cho các cơ sở sửa chữa điều hòa tại địa phương mà còn xuất đi các tỉnh và sản phẩm anh sản xuất ra chưa đủ cung cấp nhu cầu người sử dụng. Sản phẩm của anh đã được chính những người thợ sửa điều hòa và khách hàng đánh giá rất cao bởi nhiều ưu điểm nổi bật: tiết kiệm thời gian, công sức và hạn chế tối đa lượng bụi phát tán ra môi trường trong quá trình lắp đặt máy điều hòa.

 Ông Nguyễn Duy Hằng, trú tại phường Việt Hưng, thành phố Hạ Long, Quảng Ninh cho biết: “Tôi đã đến tận nơi anh Tạo sản xuất ra bộ máy và được chứng kiến công nghệ sản xuất rất hiện đại, mặc dù anh Tạo chỉ là một nông dân nhưng đã dám nghĩ, dám làm để tạo ra sản phẩm hữu ích này, phục vụ cuộc sống. Tôi đã mua 01 bộ sản phẩm về sử dụng và thấy được những tiện ích: giảm thời gian, công sức lao động và không bị phát tán bụi ra môi trường, giá thành bộ sản phẩm không cao so với chi phí người sản xuất bỏ ra…đây là một sản phẩm hiếm có, do đó người sản xuất ra sản phẩm này thật đáng biểu dương”.

Còn những người thợ trực tiếp làm công việc lắp máy điều hòa ở phường Hoành Bồ, thành phố Hạ Long, Quảng Ninh thì cho hay: Từ khi có bộ máy này, có giá đỡ khoan cho người thợ lắp đặt điều hòa đã tạo được mỹ quan trong lắp đặt và quan trọng là không gây nguy hiểm, rất an toàn khi sử dụng ở trên cao. Do đó chúng tôi rất yên tâm khi thực hiện công việc lắp đặt máy điều hòa.       

  Bên cạnh việc sáng chế ra bộ máy khoan rút lõi bê tông đầu tiên trên thị trường, anh Tạo cũng đã thiết kế lắp ráp Bảng điều khiển hệ thống năng lượng mặt trời đầu tiên trên địa bàn tỉnh vào năm 2008 có công suất 1000W và nâng cấp lên 5000W vào năm 2011. Nhờ đó, gia đình anh đã tiết kiệm được 70% lượng điện tiêu thụ hàng tháng, đặc biệt vào mùa hè, thời gian cao điểm. Hệ thống này cũng đã được anh lắp đặt cho một số hộ gia đình ở phường Hoành Bồ nơi anh sinh sống.

  Hiện nay, người nông dân Dương Văn Tạo vẫn đang tiếp tục phát huy niềm đam mê sáng tạo của mình để phát triển cơ sở sản xuất, phấn đấu trở thành doanh nghiệp KH&CN.

                                                       

  Hương Anh

 

 

 

Nữ kỹ sư cháy bỏng niềm đam mê nghiên cứu khoa học

 

15 năm công tác trong lĩnh vực khoa học và công nghệ (KH&CN) để lại trong tôi ấn tượng khó quên về những tấm gương tiêu biểu năng động, trí tuệ, có những đóng góp lớn lao trong công tác nghiên cứu khoa học và công nghệ và sáng tạo trong sản xuất kinh doanh. Một trong số đó là chị Trần Thị Hồng, hiện là Tổng Giám đốc Công ty CP Giống cây trồng Quảng Ninh. Người phụ nữ tràn đầy nhiệt huyết, trăn trở, đau đáu ngày đêm với mong muốn được cống hiến nhiều hơn... góp phần vào sự phát triển kinh tế của tỉnh và của đất nước.

Chị Trần Thị Hồng (thứ 2, phải sang) cùng các kỹ sư nông nghiệp của Công ty CP Giống cây trồng Quảng Ninh kiểm tra kết quả khảo nghiệm giống lúa mới tại Khu khảo nghiệm giống lúa mới của Công ty.

Chị Trần Thị Hồng là người phụ nữ giản dị, đôn hậu, thân thiện, luôn cháy bỏng niềm đam mê nghiên cứu khoa học, cả đời gắn bó với nông dân. Thành quả trên 35 năm nghiên cứu của chị thật đáng nể phục bởi sự say mê, tích cực nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ để chọn tạo được những giống lúa mới, tốt, cho năng suất cao. Trong đó, nhiều năm liền là chủ nhiệm đề tài khoa học cấp tỉnh về nhiệm vụ khảo nghiệm các giống lúa mới. Đồng thời, là tác giả chính chọn tạo ra 14 giống lúa thuần được Bộ NN&PTNT công nhận quốc gia và 17 giống lúa thuần mới được Bộ NN&PTNT cấp văn bằng bảo hộ giống cây trồng.

Trong những lần đi công tác cùng chị, thăm những mô hình nghiên cứu, ứng dụng KH&CN vào thực hiện khảo nghiệm, phục tráng, sản xuất những giống lúa mới từ kết quả những nhiệm vụ khoa học do chị tâm huyết đề xuất, được Hội đồng khoa học công nghệ cấp tỉnh đồng ý và trình UBND tỉnh phê duyệt thực hiện, tôi rất khâm phục chị bởi nguồn năng lượng dồi dào, không mệt mỏi, cả đời gắn bó với đồng ruộng như một nông dân thực thụ. Chị Hồng tâm sự: Tốt nghiệp Trường Đại học Nông nghiệp I năm 1988, chị xác định gắn bó cuộc đời mình với quê hương Đông Triều, nên xin vào làm việc tại Công ty CP Giống cây trồng Quảng Ninh. Chị được phân về tổ kỹ thuật với công việc sản xuất giống lúa. Từ đó đến nay chị vẫn gắn bó với công việc của một người nghiên cứu tìm ra những giống lúa mới có năng suất và chất lượng tốt nhất cho ngành Nông nghiệp của tỉnh, của đất nước.

Chị Hồng đã luôn nỗ lực, trở thành tấm gương sáng về sự làm việc không mệt mỏi ngày đêm, thổi bùng ngọn lửa yêu nghề trong những kỹ sư nông nghiệp, cán bộ, nhân viên trẻ ở Công ty. Chị Hồng chia sẻ: Các vụ sản xuất gần đây, giá xăng dầu, phân bón, thuốc BVTV tăng, đẩy chi phí đầu vào cây lúa lên cao. Hạt thóc giống làm ra giá cả vẫn không tăng, không tương xứng với chi phí đầu vào, nhưng tôi luôn vận động CBVNV Công ty tin tưởng, yên tâm, tiếp tục bám ruộng, bám đất sản xuất.

Chị là chủ nhiệm đề tài chọn tạo giống lúa mới trong nhiều năm. Chị đã cùng cán bộ Công ty thực hiện nhiều giải pháp, sáng kiến đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ để tìm ra những giống lúa năng suất, chất lượng cho ngành Nông nghiệp Quảng Ninh nói riêng, cả nước nói chung. Đến nay, rất nhiều giống lúa đã đi vào lịch sử một thời xoá đói, giảm nghèo như: Khang dân 18, Q5, Ải 32, Lưỡng Quảng 164, Kim cương 90, Hương thơm số 1, Hồng Công 1, Khâm dục số 2, ĐT 34, Nếp ĐT 52, ĐT 37, ĐT 100. Các giống lúa mới của Công ty đã phát triển rất tốt ở 5 vùng sinh thái: Trung du miền núi, Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung bộ, Tây Nguyên. Song song với đó là phục tráng, bảo tồn giống lúa bản địa của tỉnh như Nếp cái hoa vàng Đông Triều, Bao thai lùn Quảng Ninh, Bãi đỏ Đông Triều… nhằm khôi phục lại những giống lúa truyền thống, chất lượng thơm ngon vốn được tạo ra từ những vùng đất riêng biệt của Quảng Ninh, tạo nên những sản phẩm OCOP của tỉnh.

 Chị Hồng cho biết: Theo số liệu của Cục Trồng trọt (Bộ NN&PTNT) năm 2016, trong tốp 10 giống có diện tích gieo cấy lớn nhất, chiếm 53,4%  diện tích lúa 2 vụ,  thì giống lúa Khang dân 18 xếp thứ nhất, gieo cấy với 105.200ha bằng gần 26% diện tích gieo cấy các giống lúa tẻ, 16,6% cơ cấu các giống lúa của vùng. Trong lịch sử lúa nước Việt Nam chưa từng có giống lúa nào được gieo cấy nhiều như Khang dân 18.

Bên cạnh đó, các giống lúa: Q5, Hương thơm số 1 phát triển tốt, diện tích gieo cấy mỗi giống trên 300.000 ha, đứng thứ 6 cả nước, đứng thứ 2 các tỉnh miền Bắc. Đối với tỉnh Quảng Ninh, các giống lúa của Công ty được gieo cấy 70-80% diện tích, chống chịu sâu bệnh và thời tiết bất lợi tốt, năng suất tăng từ 1,5-2 tấn/ha, giá bán cao hơn 1.000-2000 đồng/kg so với giống cũ chưa được chọn lọc lại, làm lợi cho sản xuất hàng nghìn tấn lương thực. Giá trị gia tăng của các giống này ở mỗi vụ trên đất Quảng Ninh hàng tỷ đồng, do đó khuyến khích được nông dân hăng hái sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm, góp phần xây dựng nông thôn mới.

Bên cạnh công việc của một nhà khoa học, chị còn làm lãnh đạo – Tổng Giám đốc của Công ty CP Giống cây trồng Quảng Ninh. Chị Hồng đã luôn nỗ lực, trở thành tấm gương sáng về tinh thần trách nhiệm, sự cống hiến không mệt mỏi, thổi bùng ngọn lửa yêu nghề trong những kỹ sư nông nghiệp, cán bộ, nhân viên trẻ ở Công ty. Để vượt qua những khó khăn, biến động của thị trường, chị đã luôn sát cánh, động viên CBVNV Công ty tin tưởng, yên tâm công tác, tiếp tục bám đất, bám ruộng. Chị Hồng tâm sự đầy nhiệt huyết: “Ban lãnh đạo Công ty luôn xác định trách nhiệm đảm bảo thu nhập, đời sống cho cán bộ, công nhân viên để những kỹ sư nông nghiệp của Công ty có đời sống kinh tế ổn định, giữ lòng nhiệt huyết và đam mê nghiên cứu khoa học, tạo ra những giống cây trồng mới có chất lượng tốt phục vụ  nhu cầu giống sản xuất của bà con nông dân. Riêng tôi luôn khích lệ động viên cán bộ, nhân viên trong Công ty và bản thân gương mẫu, đảm đang công việc, hết lòng nhiệt tình, say mê bằng cả trái tim”.

Chị cùng Ban lãnh đạo Công ty đặc biệt quan tâm đến việc đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn sâu và có lòng yêu nghề thực sự. Đây là một trong những yếu tố quan trọng đầu tiên trong quá trình xây dựng thương hiệu của công ty. Đội ngũ cán bộ kỹ thuật làm nghiên cứu của Công ty đã được thường xuyên đào tạo nâng cao tay nghề với phương châm “Vừa Hồng vừa Chuyên”, tích cực gắn bó với thực tiễn sản xuất và tận tình giúp đỡ bà con nông dân.

Hoạt động nghiên cứu khoa học tạo ra các giống lúa mới của chị Hồng và các cán bộ công nhân viên trong Công ty thời gian qua đã góp phần tạo sự chuyển biến về năng suất, chất lượng, hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh. Tỷ lệ ứng dụng giống mới, tiến bộ kỹ thuật mới đạt trên 74%. Các giống mới sinh trưởng phát triển tốt, năng suất cao hơn giống đối chứng từ 10-15%, chống chịu tốt với biến đổi khí hậu, sâu bệnh, giảm ô nhiễm môi trường, tiết kiệm được chi phí sản xuất, tạo ra nhiều việc làm, tăng thu nhập cho người nông dân nâng cao hiệu quả sản xuất từ 13-15%, góp phần đảm bảo an ninh lương thực và xây dựng nông thôn mới.

Là doanh nghiệp khoa học và công nghệ tiêu biểu của tỉnh, Công ty CP giống cây trồng Quảng Ninh do chị làm Tổng Giám đốc đã trở thành cầu nối giữa kết quả nghiên cứu của các Viện, Học viện Nông nghiệp vào thực tiễn sản xuất mà chị là một trong những người có công đầu.

Với những thành tích đạt được trong công tác nghiên cứu khoa học, chị Trần Thị Hồng đã vinh dự được nhận nhiều giải thưởng cao quý: 2 Bằng lao động sáng tạo (năm 2010, năm 2012); Giải thưởng KOVA về “Khoa học công nghệ ứng dụng đạt hiệu quả thiết thực phục vụ đời sống xã hội” năm 2012; Bằng khen của UBND tỉnh năm 2012; 1 giải nhất, 1 giải nhì Hội thi STKT tỉnh lần thứ I; 1 giải nhì, 1 giải ba Hội thi STKT tỉnh lần thứ V năm 2014-2015; Bằng khen Hội LHPN tỉnh, LĐLĐ tỉnh… Gần đây nhất, nữ kỹ sư đam mê nghiên cứu này đã vinh dự được Chủ tịch UBND tỉnh tặng Bằng khen tôn vinh danh hiệu “Trí thức khoa học và công nghệ tiêu biểu năm 2020”. Đồng thời nhân dịp kỷ niệm 20 năm thành lập Sở KH&CN Quảng Ninh (tháng 7/2023), chị Hồng đã vinh dự được Bộ Khoa học và Công nghệ tặng Kỷ niệm chương vì sự nghiệp khoa học và công nghệ về những thành tích đóng góp cho ngành khoa học công nghệ.

Chị Trần Thị Hồng (người mặc áo dài đỏ đứng giữa) đón nhận Kỷ niệm chương vì sự nghiệp khoa học và công nghệ về những thành tích đóng góp cho ngành khoa học công nghệ, tháng 7/2023.

Trên vùng đất Quảng Ninh đầy năng động, sáng tạo, vươn lên phát triển KT-XH nhanh, vững chắc của tỉnh nhà có rất nhiều tấm gương phụ nữ thành công trong nghiên cứu khoa học công nghệ, phát triển sự nghiệp kinh doanh. … Chị Trần Thị Hồng là một trong những tấm gương như thế đang tỏa sáng từ đam mê nghiên cứu khoa học, học tập và làm theo tư tưởng đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, khơi dậy khát vọng xây dựng tỉnh Quảng Ninh ngày càng giàu đẹp, văn minh. Đó thực sự là niềm động viên khích lệ lực lượng lao động nữ của Quảng Ninh tiếp tục vươn lên gặt hái nhiều thành công lớn góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân và làm giàu cho quê hương Quảng Ninh.

Nguyễn Thị Thu Hương

 

 

PHỔ BIẾN KIẾN THỨC

 

7 điều nên làm phòng tránh đột quỵ

 

Kiểm soát huyết áp, cân nặng, bệnh rung nhĩ và đái tháo đường, bỏ thuốc lá góp phần giảm nguy cơ đột quỵ.

 

Đột quỵ là bệnh thần kinh nguy hiểm, có thể xảy ra với bất kỳ ai, ở mọi lứa tuổi. Bệnh thường xảy ra đột ngột, nếu không được cấp cứu kịp thời dễ dẫn đến biến chứng nặng, tử vong.

BSCKII Đàm Thị Cẩm Linh, Khoa Thần kinh, Trung tâm Khoa học Thần kinh, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP HCM, cho biết có nhiều yếu tố làm tăng nguy cơ đột quỵ, hiện chưa có cách ngăn chặn triệt để nhưng một số thay đổi lối sống, kiểm soát bệnh nền góp phần giảm đáng kể nguy cơ.

Giảm cân với người thừa cân, béo phì: Cân nặng dư thừa làm tăng khả năng mắc các bệnh như tăng huyết áp, tiểu đường, xơ vữa động mạch... Chúng đều là những yếu tố nguy cơ cao dẫn đến đột quỵ. Chỉ số cơ thể (BMI) lý tưởng ở mức 18,5-22,9.

Không hút thuốc lá: Khói thuốc lá làm tăng lượng mảng bám tích tụ trong động mạch, khiến máu đặc hơn. Tình trạng này thúc đẩy hình thành các cục máu đông gây tắc nghẽn động mạch dẫn tới đột quỵ. Người muốn cai thuốc lá nên được bác sĩ tư vấn và áp dụng các phương pháp hỗ trợ để tăng hiệu quả.

Thường xuyên kiểm tra huyết áp: Huyết áp cao là yếu tố nguy cơ thường gặp nhất dẫn tới đột quỵ. Bác sĩ Cẩm Linh cho biết tùy vào mức độ tăng huyết áp, nguy cơ đột quỵ tăng lên gấp hai, có thể gấp 4 lần so với người bình thường. Mức huyết áp lý tưởng đối với người khỏe mạnh là 120/80 mmHg. Người mắc huyết áp cao có chỉ số huyết áp vượt quá 140/90 mmHg nên đi khám bác sĩ để được tư vấn biện pháp điều trị phù hợp.

Phòng bệnh tăng huyết áp bằng cách tập thói quen ăn nhạt, ít muối, giảm lượng muối trong chế độ ăn hàng ngày xuống dưới 1.500 mlg (tương đương một nửa thìa cà phê). Nên hạn chế các loại thực phẩm có hàm lượng cholesterol cao như ngũ tạng động vật, thức ăn nhiều dầu mỡ, chiên rán, lòng đỏ trứng, thịt nguội, chỉ ăn thịt đỏ hai đến ba lần mỗi tuần. Tăng cường ăn các loại trái cây, rau quả mỗi ngày.

Tầm soát và điều trị rung nhĩ: Đây là một dạng nhịp tim không đều, dễ dẫn đến hình thành cục máu đông trong tim. Theo dòng tuần hoàn máu, những cục máu đông có thể di chuyển lên tới não gây tắc mạch máu não, tăng nguy cơ đột quỵ.

Những triệu chứng rung tâm nhĩ bao gồm tim đập nhanh, khó thở, nặng ngực, tức ngực, hay đau ngực... Người bệnh cần điều trị sớm.

Phòng ngừa hoặc kiểm soát đái tháo đường: Lượng đường trong máu cao thường làm tổn thương các mạch máu, dễ hình thành các cục máu đông. Để phòng ngừa đái tháo đường, nên hạn chế đồ uống có đường, ăn uống điều độ, đa dạng thực phẩm, ăn đúng giờ và tránh bỏ bữa, bổ sung ngũ cốc nguyên hạt, thực phẩm giàu chất xơ.

Người mắc bệnh tiểu đường cần thường xuyên theo dõi chỉ số đường huyết. Áp dụng chế độ ăn kiêng và dùng thuốc theo hướng dẫn của bác sĩ.

Uống rượu chừng mực: Người trưởng thành có thể uống một ly nhỏ rượu nhẹ mỗi ngày. Nguy cơ đột quỵ tăng tỷ lệ thuận với lượng rượu và nồng độ cồn trong loại rượu tiêu thụ.

Tăng cường vận động: Tập thể dục ít nhất 30 phút mỗi ngày có tác dụng tốt với sức khỏe, phòng ngừa đột quỵ cũng như nhiều bệnh nguy hiểm khác. Vận động giúp đốt cháy năng lượng dư thừa, ngăn ngừa béo phì, tăng huyết áp, tiểu đường, bệnh tim... Tập thể dục hỗ trợ điều hòa nhịp tim, tăng cường lưu thông máu, giảm căng thẳng, cải thiện giấc ngủ... góp phần phòng ngừa đột quỵ.

Mỗi người có thể chọn hình thức vận động phù hợp sở thích, điều kiện sức khỏe như đi bộ, bơi lội, chơi cầu lông... Đi cầu thang bộ thay vì đi thang máy, chia nhỏ thời gian để vận động trong ngày thành nhiều khoảng ngắn 5-10 phút cũng giúp ích.

Các dấu hiệu thường gặp của đột quỵ bao gồm méo lệch mặt hoặc miệng, khó nói, tê yếu hoặc mất cảm giác ở một bên cơ thể, đau đầu bất thường, giảm thị lực, bước đi không vững... Bác sĩ Cẩm Linh khuyến cáo người bệnh cần đến bệnh viện cấp cứu đột quỵ kịp thời, càng sớm càng tốt.

Nguồn Sưu tầm

 

7 loại thảo mộc giúp phòng ốm khi gió mùa về

 

Khi thay đổi thời tiết, gió mùa… có thể làm giảm khả năng miễn dịch của cơ thể, dễ bị ốm. Thực hiện các biện pháp phòng ngừa thích hợp kết hợp với việc dùng các loại thảo mộc dưới đây vào chế độ ăn uống, giúp tăng cường hàng rào bảo vệ cho cơ thể khỏi bệnh tật…

 

Hệ thống miễn dịch có vai trò quan trọng giúp bảo vệ cơ thể khỏi các chất có hại, vi khuẩn, virus, nấm… và những thay đổi của tế bào bên trong cơ thể. Nếu miễn dịch cơ thể bị suy giảm, rất dễ bị bệnh, từ thông thường như cảm cúm, sốt… đến nghiêm trọng (các bệnh mạn tính nguy hiểm, ung thư…).

Do đó, làm cho hệ miễn dịch mạnh mẽ là rất quan trọng, bằng cách tập luyện đều đặn hàng ngày và thực hiện dinh dưỡng khoa học.

Thêm một số thảo mộc dưới đây vào trong chế độ ăn uống cũng giúp tăng cường sức khỏe tổng thể và hỗ trợ hệ thống miễn dịch.

1. Bổ sung gừng giúp tăng cường miễn dịch

Gừng là gia vị rất phổ biến, được dùng trong chế biến nhiều món ăn…

Gừng là vị thuốc chủ yếu trong y học cổ truyền. Trong nhiều thế kỷ, người ta đã sử dụng loại gia vị ấm này để điều trị đau đầu, cảm lạnh, buồn nôn và nôn…

Gingerol - một thành phần hoạt tính sinh học chính của gừng, đã được báo cáo là có chức năng chống viêm, kháng virus, chống ung thư, chống oxy hóa và kháng khuẩn.

Theo một đánh giá trên Tạp chí Y tế Dự phòng quốc tế, các hợp chất trong gừng - chủ yếu là gingerol và shogaol - cũng có đặc tính chống oxy hóa, chống viêm và giảm đau. Các tác giả lưu ý rằng, những đặc tính này giúp tăng cường khả năng phòng vệ của cơ thể, có thể bảo vệ chống lại nhiều bệnh mạn tính…

Gừng còn chứa hợp chất hoạt tính sinh học ginestin, có tác dụng làm lỏng và loại bỏ đờm, giúp cơ thể phục hồi nhanh chóng. Nó cũng đã được chứng minh là có tác dụng tăng cường hệ thống miễn dịch và giảm nhiễm trùng do vi khuẩn dạ dày.

Bạn có thể thưởng thức dưới dạng uống trà gừng bằng cách: Sử dụng túi trà gừng thương mại hoặc pha trà gừng tươi. Để tự pha trà, hãy mua một miếng gừng tươi, gọt vỏ, cắt thành từng lát mỏng theo chiều ngang, rồi cho vài lát vào cốc, đổ nước sôi vào, đậy nắp và ngâm trong 10 phút, rồi thưởng thức.

Uống trà gừng hoặc thêm gừng bào sợi vào các món súp, món hầm hoặc món xào có thể giúp tăng cường sức khỏe tổng thể của bạn trong mùa gió mùa. Ho và nghẹt mũi là tình trạng rất dễ xảy ra khi trời lạnh. Gừng có thể giúp cải thiện các triệu chứng này.

2. Bổ sung nghệ

Nghệ là một loại gia vị màu vàng, có tác dụng chống viêm. Việc tiêu thụ thực phẩm chống viêm có thể giúp giảm tình trạng viêm, liên quan đến cảm lạnh và cúm. Curcumin, hợp chất hoạt động chính trong củ nghệ, có đặc tính chống viêm và chống oxy hóa mạnh mẽ, đồng thời đã được chứng minh là cải thiện các dấu hiệu căng thẳng oxy hóa.

Stress oxy hóa là hiện tượng gây ra bởi sự mất cân bằng giữa các gốc tự do (các phân tử không ổn định thường được tạo ra bởi các chất ô nhiễm môi trường) và các chất chống oxy hóa (các phân tử trung hòa các gốc tự do). Khi điều này xảy ra, các gốc tự do có thể làm hỏng các tế bào khác nhau trong cơ thể và hệ thống miễn dịch sẽ kích hoạt tình trạng viêm. Trong khi nghiên cứu đang được tiến hành cho thấy, có mối liên hệ giữa phản ứng của hệ thống miễn dịch này với stress oxy hóa và các rối loạn tự miễn dịch (nghiên cứu trên Tạp chí Oxidative Medicine and Cellular Longevittheo).

Nghệ có thể được hấp thụ tốt hơn khi có một số chất béo, piperine (một hợp chất trong hạt tiêu đen). Do đó, nếu uống sữa nghệ nên cho thêm chất béo hoặc các loại gia vị ấm khác như hạt tiêu đen, để tăng thêm tác dụng. Nghệ cũng rất tuyệt vời khi thêm vào món cà ri, súp và thịt nướng.

3. Bổ sung quế

Một loại gia vị có tính ấm khác là quế, nổi tiếng với đặc tính chống oxy hóa. Trên thực tế, quế có đặc tính chống oxy hóa cao hơn bạc hà, gừng và cam thảo, theo một nghiên cứu cho biết.

Quế cũng mang lại lợi ích chống nấm, chống vi khuẩn và chống viêm. E-cinnamaldehyde là một trong những hợp chất hoạt động chính trong quế, mang lại tác dụng chống viêm mạnh mẽ này.

E-cinnamaldehyde cũng là một hợp chất kháng khuẩn. Một nghiên cứu công bố trên Foods cho thấy, E-cinnamaldehyde có thể ức chế sự phát triển của vi khuẩn listeria. Tinh dầu quế có tác dụng đối với vi khuẩn salmonella.

Cách thưởng thức: Rắc quế lên bánh mì nướng hoặc cho vào cà phê, trà để tăng thêm hương vị. Quế cũng kết hợp tốt với các loại trái cây như táo và lê.

4. Bổ sung thảo mộc bạc hà

Bạc hà là một loại thảo dược có chứa nhiều loại flavonoid. Đây là những hợp chất thực vật có tác dụng có lợi cho sức khỏe miễn dịch. Bạc hà cũng chứa tinh dầu (tinh dầu bạc hà), một hợp chất có tác dụng gây tê và giảm đau. Tinh dầu bạc hà thường được thêm vào các phương pháp điều trị cảm lạnh và cúm không kê đơn, có tác dụng mở hoặc thư giãn đường thở.

Khi bị ngạt mũi, có thể hít hơi nước có trộn vài giọt tinh dầu bạc hà hoặc pha một cốc trà bạc hà nóng rồi thưởng thức.

5. Bổ sung ớt

Theo Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, ớt bột (ớt đỏ) là loại gia vị chứa rất nhiều hợp chất hữu ích như vitamin C và A. Mặc dù không có nghiên cứu nào về ớt bột liên quan trực tiếp đến hệ thống miễn dịch, nhưng có một số mối liên hệ đã được biết đến. Ví dụ, vitamin C (axit ascorbic) là một chất chống oxy hóa giúp bảo vệ cơ thể bạn chống lại các gốc tự do; giúp giữ cho các tế bào miễn dịch của cơ thể khỏe mạnh. Vitamin C có thể làm giảm thời gian bị cảm lạnh thông thường.

Trong khi đó, vitamin A đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển hệ thống miễn dịch và giúp điều chỉnh các phản ứng miễn dịch. Capsaicin là hợp chất gây ra tác dụng đốt cháy của ớt, có thể giảm đau và viêm.

Có thể rắc ớt bột lên trứng, đậu, món hầm, phô mai và bỏng ngô. Đây cũng là gia vị tuyệt vời trong nước xốt và nước sốt salad.

6. Bổ sung sả

Sả chứa các hợp chất như citral, có đặc tính kháng khuẩn, chống viêm và kích thích miễn dịch, hỗ trợ điều trị bệnh. Uống trà sả hoặc kết hợp với món súp làm từ sả có thể giúp tăng cường hệ thống miễn dịch và bảo vệ khỏi các bệnh thông thường khi gió mùa về như cảm lạnh và nhiễm trùng.

Việc sử dụng trà sả thường xuyên cũng được chứng minh là làm giảm căng thẳng oxy hóa và bảo vệ chống lại các cuộc tấn công của gốc tự do. Có thể dễ dàng thêm sả vào khi pha 1-2 tách trà sả mỗi ngày sẽ có tác dụng tốt.

7. Thảo mộc Giloy

Giloy cũng là một loại thảo mộc có tác dụng kháng viêm, hạ sốt, giúp tăng cường khả năng miễn dịch để chống lại nhiễm trùng và giúp cơ thể sớm phục hồi.

Tiêu thụ giloy dưới dạng thuốc sắc hoặc ở dạng bột có thể giúp củng cố hệ thống miễn dịch của bạn trong mùa lạnh. Ngoài ra, giloy giúp giảm viêm và đau khớp. Giloy cùng với tulsi giúp tăng cường khả năng miễn dịch.

Nguồn Sưu tầm

 

TIN HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

 

16 vị trí việc làm viên chức chuyên ngành khoa học và công nghệ

 

Vừa qua, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành Thông tư 17/2023/TT-BKHCN hướng dẫn về vị trí việc làm lãnh đạo, quản lý và chức danh nghề nghiệp chuyên ngành khoa học và công nghệ, cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp trong tổ chức khoa học và công nghệ công lập.

 

Theo đó, Danh mục vị trí việc làm viên chức chuyên ngành khoa học và công nghệ và hạng chức danh nghề nghiệp tương ứng được quy định tại Phụ lục II ban hành kèm theo Thông tư 17/2023/TT-BKHCN bao gồm:

 

  1. Nghiên cứu viên cao cấp: Nghiên cứu viên cao cấp (hạng I)
  2. Nghiên cứu viên chính: Nghiên cứu viên chính (hạng II)
  3. Nghiên cứu viên: Nghiên cứu viên (hạng III)
  4. Trợ lý nghiên cứu: Trợ lý nghiên cứu (hạng IV)
  5. Kỹ sư cao cấp: Kỹ sư cao cấp (hạng I)
  6. Kỹ sư chính: Kỹ sư chính (hạng II)
  7. Kỹ sư: Kỹ sư (hạng III)
  8. Kỹ thuật viên: Kỹ thuật viên (hạng IV)
  9. Đánh giá sự phù hợp hạng I: Kỹ sư cao cấp (hạng I) hoặc tương đương
  10. Đánh giá sự phù hợp hạng II: Kỹ sư chính (hạng II) hoặc tương đương
  11. Đánh giá sự phù hợp hạng III: Kỹ sư (hạng III) hoặc tương đương
  12. Năng suất, chất lượng hạng I: Nghiên cứu viên cao cấp (hạng I) hoặc tương đương
  13. Năng suất, chất lượng hạng II: Nghiên cứu viên chính (hạng II) hoặc tương đương
  14. Năng suất, chất lượng hạng III: Nghiên cứu viên (hạng III) hoặc tương đương
  15. Sở hữu trí tuệ hạng II: Chuyên viên chính hoặc tương đương
  16. Sở hữu trí tuệ hạng III: Chuyên viên hoặc tương đương

 

Về nguyên tắc xác định vị trí việc làm trong tổ chức khoa học và công nghệ công lập: Thực hiện theo quy định tại Điều 3 Nghị định 106/2020/NĐ-CP về vị trí việc làm và số lượng người làm việc trong đơn vị sự nghiệp công lập cụ thể: Thực hiện nghiêm chủ trương của Đảng và của pháp luật về vị trí việc làm, số lượng người làm việc và tinh giản biên chế trong đơn vị sự nghiệp công lập; Phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của đơn vị sự nghiệp công lập; Bảo đảm tính khoa học, khách quan, công khai, minh bạch, hiệu quả và nâng cao chất lượng đội ngũ viên chức, người lao động trong đơn vị sự nghiệp công lập; Bảo đảm một người làm việc phải được giao đủ khối lượng công việc để thực hiện theo thời gian lao động quy định. Những vị trí việc làm không có đủ khối lượng công việc để thực hiện theo thời gian quy định của một người làm việc thì phải bố trí kiêm nhiệm; Bảo đảm cơ cấu hợp lý, trong đó số lượng người làm việc tại các vị trí việc làm chức danh nghề nghiệp chuyên ngành và chức danh nghề nghiệp chuyên môn dùng chung chiếm tỉ lệ tối thiểu 65% tổng số lượng người làm việc của đơn vị sự nghiệp công lập.

Mỗi vị trí việc làm phải có tên gọi cụ thể và gắn với chức vụ, chức danh lãnh đạo, quản lý hoặc hạng chức danh nghề nghiệp viên chức.

Thông tư 17/2023/TT-BKHCN có hiệu lực kể từ ngày 25/9/2023.

 

Hương Anh

 

 

 

Sở KH&CN đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính

 

Cùng với các ngành, lĩnh vực, thời gian qua, ngành Khoa học và Công nghệ đã tiếp tục thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước; hoàn thiện thể chế và đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản, dễ tiếp cận, dễ thực hiện, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả.

 

Năm 2021 Quảng Ninh áp dụng 51 thủ tục hành chính của ngành KH&CN. Trong đó lĩnh vực Năng lượng nguyên tử, ATBX và hạt nhân có 07 thủ tục; lĩnh vực quản lý Tiêu chuẩn đo lường chất lượng có 17 thủ tục; lĩnh vực Sở hữu trí tuệ có 02 thủ tục; lĩnh vực hoạt động khoa học và công nghệ có 25 thủ tục.

Năm 2023, Sở KH&CN đã trình UBND tỉnh ban hành Quyết định công bố mới ban hành TTHC sửa đổi, bổ sung và TTHC bị bãi bỏ thuộc phạm vi chức năng quản lý của Sở Khoa học và Công nghệ. Đến thời điểm này, Sở có tổng số 49 TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết đều được công khai. Như vậy, khi thực hiện Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 15/7/2021 của Chính phủ về ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính (CCHC) nhà nước giai đoạn 2021- 2030, Quảng Ninh đã cắt giảm được 05 TTHC trong lĩnh vực quản lý Tiêu chuẩn đo lường chất lượng, giảm 02 TTHC lĩnh vực hoạt động khoa học và công nghệ so với năm 2021.

Trong thời gian qua, Sở KHCN đã triển khai nhiều giải pháp nhằm nâng cao chỉ số cải cách hành chính, cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh DDCI của đơn vị và đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Năm 2022, trong bảng xếp hạng chỉ số thành phần công tác chỉ đạo, điều hành, cải cách hành chính của sở, ban, ngành toàn tỉnh, Sở KH&CN đứng thứ 6/20; chỉ số thành phần xây dựng và phát triển chính quyền số đứng thứ 7/20 sở, ngành.

Chỉ số DDCI của Sở KH&CN đã được cải thiện theo từng năm. Năm 2021, Sở KHCN chỉ xếp hạng 20/21 thì đến năm 2022 đã lên hạng 14/19, trong đó có 4 chỉ số thành phần quan trọng được cải thiện về cả thứ hạng và điểm số gồm: Vai trò người đứng đầu; tiếp cận minh bạch thông tin và chuyển đổi số; thiết chế pháp lý và chi phí thời gian. Để hoàn thành mục tiêu về DDCI năm 2023, Sở KHCN đang nỗ lực khắc phục 4 chỉ số bị giảm sâu về điểm như chi phí không chính thức; tính năng động, sáng tạo và hiệu quả hoạt động; cạnh tranh bình đẳng và hỗ trợ doanh nghiệp

 

Hương Anh

 

Hỗ trợ doanh nghiệp, HTX nâng tầm sản phẩm OCOP

 

Những năm qua, tỉnh Quảng Ninh đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách khuyến khích nhằm đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ vào phát triển nông sản, nâng tầm sản phẩm OCOP. Sở KH&CN đã luôn đồng hành, hỗ trợ các địa phương, doanh nghiệp thúc đẩy đổi mới sáng tạo sản phẩm OCOP theo chiều sâu, nâng cao chất lượng sản phẩm, gia tăng giá trị, xây dựng thương hiệu OCOP Quảng Ninh đứng vững trên thị trường.

 

Nhiều sản phẩm OCOP chủ lực trên địa bàn tỉnh được ứng dụng KHCN vào các khâu sản xuất, chế biến, bảo quản, đóng gói và tiêu thụ. Nhờ đó nâng cao chất lượng, đa dạng hóa mẫu mã, giúp nâng tầm giá trị trên thị trường và quan trọng nhất là tăng thu nhập cho người nông dân.

Thời gian qua Sở KH&CN đã đẩy mạnh hỗ trợ, tuyên truyền tới các doanh nghiệp, HTX ứng dụng KH&CN vào sản xuất. Lãnh đạo Sở đã chỉ đạo các phòng, đơn vị trực thuộc tăng cường triển khai thực hiện các nhiệm vụ ứng dụng KH&CN đối với các sản phẩm OCOP, tập  trung hướng dẫn các đơn vị, tổ chức, cá nhân về ghi nhãn hàng hóa, đăng ký mã số mã vạch truy xuất nguồn gốc sản phẩm, xác lập và thực thi quyền sở hữu trí tuệ, hỗ trợ chuyển giao, ứng dụng KHCN trong sản xuất…

Đến thời điểm hiện tại, 100% sản phẩm tham gia chương trình OCOP của tỉnh được triển khai dán tem điện tử thông minh nhằm quản lý, truy xuất nguồn gốc, góp phần giúp giám sát chất lượng sản phẩm, đồng thời giúp người tiêu dùng thuận tiện hơn trong việc tra cứu, nhận biết thông tin, chất lượng hàng hóa.

Bên cạnh đó, Sở KH&CN thường xuyên tuyên truyền, kiểm tra, xử lý các trường hợp vi phạm và cảnh báo tới người tiêu dùng đối với hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng lưu thông trên thị trường.

Hương Anh

 

 

 

 


Tìm kiếm theo chuyên mục - nội dung - ngày tháng

Tin Nóng
Tin tiêu điểm

Lịch công tác trống

Website liên kết
Thống kê truy cập
Hôm nay: 181
Đã truy cập: 2476870