BẢN TIN KHOA HỌC VÀ PHÁT TRIỂN SỐ 04 NĂM 2024

30/11/2024 16:38

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

 

Nâng cao nhận thức, trác nhiệm về vai trò của khoa học và công nghệ

 

Tại Hướng dẫn số 149-HD/BTGTW ngày 25/3/2024, Ban Tuyên giáo Trung ương hướng dẫn thực hiện Kết luận số 69-KL/TW, ngày 11/01/2024 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 01/11/2012 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

Toàn cảnh Hội nghị quán triệt Quy định số 144-QĐ/TW ngày 09/5/2024 của Bộ Chính trị về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới do Đảng uỷ Sở KH&CN tổ chức (tháng 8/2024).

 Theo Hướng dẫn số 149-HD/BTGTW, các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp căn cứ nội dung của Nghị quyết số 20-NQ/TW, Kết luận số 69-KL/TW cùng các chủ trương của Đảng về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo được nêu trong Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết sổ 29-NQ/TW, Nghị quyết số 45-NQ/TW chỉ đạo nghiên cứu, xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện phù hợp chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, đặc điểm, tình hình cụ thể của ngành, địa phương, đơn vị. Khẩn trương có các giải pháp khắc phục một số hạn chế, yếu kém trong việc thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW đã được chỉ ra tại Kết luận. Trong đó, chú trọng những nhiệm vụ cụ thể sau: tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; đổi mới tư duy, hoàn thiện chính sách, pháp luật, nâng cao vai trò quản lý nhà nước về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; nâng cao tiềm lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo; thúc đẩy phát triển thị trường khoa học và công nghệ; đẩy mạnh hội nhập, hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Xác định rõ tầm quan trọng của việc nâng cao nhận thức, trác nhiệm của toàn xã hội về vai trò của khoa học và công nghệ; Đảng uỷ Sở KH&CN đã xây dựng Kế hoạch số 856-KH/ĐU ngày 30/10/2024 triển khai thực hiện theo Kế hoạch số 169-KH/ĐUK ngày 03/10/2024 của Đảng uỷ Khối các cơ quan tỉnh tuyên truyền, quán triệt triển khai thực hiện Kết luận số 69-KL/TW ngày 11/01/2024 của Bộ Chính trị, Kế hoạch số 435-KH/TU ngày 10/7/2024 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ

Kế hoạch được triển khai nhằm cụ thể hoá các nội dung, nhiệm vụ của Kết luận số 69-KL/TW ngày 11/01/2024 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 01/11/2012 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Đồng thời, qua đó nâng cao nhận thức, trách nhiệm, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong tư duy, hành động của các cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo,, quản lý và toàn xã hội về vai trò của khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, độnt phá chiến lược, là động lực quan trọng để đổi mới mô hình tăng trưởng, phát triển đất nước nhanh và bền vững.

Bộ phận truyền thông của Trung tâm Ứng dụng và Thống kê KH&CN (Sở KH&CN) đăng tải thông tin tuyên truyền trên Cổng thông tin điện tử Sở KH&CN Quảng Ninh.

Theo đó, Kết luận số 69-KL/TW, Kế hoạch số 435-KH/TU sẽ được tuyên truyền, phổ biến rộng rãi đến tất cả các cấp uỷ, cán bộ, đảng viên, đoàn viên, công chức, viên chức, người lao động trong Đảng bộ gắn với tuyên truyền thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TU ngày 28/4/2023 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030; các  đường lối, chủ trươngcủa Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, gắn với đặc thù của tổ chức Đảng, cơ quan, đơn vị.

Nội dung tuyên truyền là toàn bộ nội dung  Kết luận số 69-KL/TW, Nghị quyết số 20-NQ/TW, Kế hoạch số 435-KH/TU cùng các chủ trương, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về khoa học, công nghê và đổi mới sáng tạo được nêu trong Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng và một số Nghị quyết khác; Tập trung tuyên truyền những kết quả nổi bật  về phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của tỉnh thời gian qua. Tuyên truyền 06 Nhóm nhiệm vụ, giải pháp của kế hoạch 435-KH/TU, nhất là những giải pháp cụ thể, vượt trội, riêng có của tỉnh, đồng thời nhấn mạnh một số hạn chế, tồn tại cần khắc phục trong thời gian tới; Tuyên truyền những công trình, giải pháp sáng tạo khoa học công nghệ tiêu biểu được công nhận, có giá trị hỗ trợ cộng đồng, nâng cao đời sống, góp phần phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, đảm bảo môi trường, chăm sóc sức khoẻ và phục vụ đời sống Nhân dân trên địa bàn tỉnh cũng như phạm vi cả nước.

Hình thức tổ chức phổ biến, quán triệt, tuyên truyền được xác định rõ: tuyên truyền thông qua đội ngũ tuyên truyền viên cấp Đảng bộ Sở; các cuộc họp, hội nghị toạ đàm, sinh hoạt Chi bộ, sinh hoạt chuyên đề, sinh hoạt đoàn thể;….

Đặc biệt, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, cấp uỷ các chi bộ chủ động phối hợp với lãnh đạo chuyên môn lựa chọn những nội dung, nhiệm vụ liên quan để chỉ đạo triển khai thực hiện hiệu quả 6 nhiệm vụ, giải pháp cụ thể: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; Đổi mới tư duy, đề xuất cơ chế, chính sách, pháp luật, nâng cao vai trò quản lý nhà nước về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; Nâng cao tiềm lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; Phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo, hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo; Thúc đẩy phát triển thị trường khoa học và công nghệ; Đẩy mạnh hội nhập, hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Bài, ảnh: Nguyễn Thị Thu Hương

 

 

Nghiên cứu, khảo sát về Chuyển đổi năng lượng và an ninh năng lượng tại Úc

 

Úc có tên chính thức là Liên bang Australia (Commonwealth of Australia) là một quốc gia nằm ở Nam bán cầu. Đây là nước lớn thứ sáu trên thế giới, là nước duy nhất chiếm toàn bộ một lục địa và cũng là nước lớn nhất trong khu vực Úc-Á (Australasia)/châu Đại Dương. Chính phủ Úc đã ban hành nhiều chính sách phát triển năng lượng bền vững về môi trường. Năm 2001, chính phủ ban hành mục tiêu năng lượng tái tạo 20% trong năm 2020 để thúc đẩy tăng cơ cấu NLTT. Chính sách giá phát thải khí carbon được áp dụng trong hai năm tài chính 2012/13 và 2013/14.

Đoàn công tác làm việc với Chính quyền Lãnh thổ thủ đô Úc ACT (Canberra).

 Vào ngày 8/9/2022, chính phủ Úc luật hóa mục tiêu giảm 43% lượng phát thải khí nhà kính của Úc so với mức năm 2005 vào năm 2030 và đạt mức phát thải ròng bằng không (NZE) vào năm 2050. Một số tiểu bang và vùng lãnh thổ của NEM còn đặt mục tiêu, chính sách phát triển bền vững riêng sớm và cao hơn như ACT duy trì 100% NLTT từ 2020 và NZE vào 2030; Nam Úc đặt mục tiêu 100% NLTT vào 2030; Queensland đặt ra các mục tiêu NLTT vào 2030, 2032 và 2035 lần lượt là 50%, 70% và 80%; Tasmania ban hành mục tiêu 150% NLTT vào 2030 và 200% vào 2040, và NZE vào 2030; Victoria đặt mục tiêu NLTT đạt 65% vào 2030 và 95% vào 2035, và NZE vào 2045.

Trên cơ sở đó, kịch bản “Thay đổi vượt bậc”, kịch bản cơ sở kỳ vọng của Quy hoạch hệ thống tích hợp năm 2022 dự báo đến năm 2030, tỷ lệ năng lượng tái tạo của NEM sẽ là 83% và 98% vào năm 2050. Tổng công suất lắp đặt của các nguồn phát điện quy mô lưới điện của NEM (tức là không bao gồm hệ thống lưu trữ và mặt trời phân tán quy mô nhỏ) cần tăng từ 60 GW trong năm 2022-23 lên 173 GW vào năm 2050 và sẽ bổ sung thêm 125 GW điện gió và mặt trời quy mô lưới điện mới lên tổng công suất 141 GW vào năm 2050.

Nhằm nghiên cứu vấn đề chuyển đổi năng lượng và an ninh năng lượng ở Úc; vừa qua, Đoàn công tác của Học viên Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (gồm 07 thành viên) do PGS - TS Nguyễn  Mạnh Hùng, Trợ lý đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị - Giám đốc Học viện CTQG HCM, Giám đốc quốc gia Trung tâm Việt – Úc làm Trưởng đoàn đã có chuyến công tác nghiên cứu, khảo sát về chuyển đổi năng lượng và an ninh năng lượng tại Úc.

Sở KH&CN Quảng Ninh vinh dự có đồng chí Nguyễn Mạnh Cường, Tỉnh uỷ viên, Giám đốc Sở đã tham gia Đoàn công tác theo Quyết định số 3027-QĐ/HVCTQG ngày 27/9/2024 của Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh về việc cử đoàn cán bộ đi nghiên cứu, khảo sát về “Chuyển đổi năng lượng và an ninh năng lượng”. Đồng thời, đồng chí Giám đốc Sở KH&CN Quảng Ninh tham gia chuyến công tác là thực hiện Quyết định số 2756/QĐ-UBND ngày 27/9/2024 của Uỷ ban Nhân dân tỉnh Quảng Ninh V/v cho phép cán bộ Sở Khoa học và Công nghệ đi công tác tại Úc.

Trong chuyến công tác, Đoàn đã nghiên cứu vấn đề chuyển đổi năng lượng và an ninh năng lượng ở Úc. Đồng thời, thông qua một số hoạt động khảo sát thực tế để tìm hiểu các vấn đề thực tiễn về chuyển đổi năng lượng và an ninh năng lượng ở Úc, tìm hiểu các hướng  nghiên cứu về chuyển đổi năng lượng, các công nghệ hiện đại được ứng dụng trong chuyển đổi năng lượng ở Úc và các hướng hợp tác phát triển về chuyển đổi năng lượng và an ninh năng lượng giữa Úc và các quốc gia khác, đặc biệt là các quốc gia Đông Nam Á.

Đoàn đã làm việc với nghị sĩ Tony Zappia, Chủ nhiệm Ủy ban thường trực về Biến đổi khí hậu, năng lượng, môi trường và nước và nghị sĩ David Gillespie, Phó chủ nhiệm Ủy ban Thường trực về Biến đổi khí hậu, năng lượng, môi trường và nước; tiếp xúc với Bà Robyn Mudie, Trợ lý thứ nhất Bộ trưởng, Bộ phận Đông Nam Á, Đại lục và khu vực và bà Caroline Linke, Trợ lý Bộ trưởng, Chi nhánh Chiến lược và Mekong, DFAT; Làm việc với Chính quyền Lãnh thổ thủ đô Úc (ACT) ; Trao đổi bàn tròn với Bộ Ngoại giao và Thương mại Úc; Gặp gỡ với Bà Kushla Munro, phó trợ lý, Bộ biến đổi khí hậu, năng lượng, môi trường và nước (DCCEEW); Trao đổi bàn tròn với Bộ biến đổi khí hậu, năng lượng, môi trường và nước (DCCEEW); Làm việc với Hội đồng Năng lượng thông minh (Ông John Grimes, Giám đốc Điều Hành và ông Wayne Smilth, Quản lý Đối ngoại); Làm việc với Viện Khí hậu, năng lượng và thiên tai, Đại học Quốc gia Australia (Tiến sĩ Steven Crimp, Phó ban Khí hậu, Tiến sĩ Thắng Đỗ, nghiên cứu viên, và Patrice McLellan, Quyền Giám đốc Văn phòng Quốc tế ĐH Quốc gia Australia; tiếp xúc với Cơ quan Kinh tế Net Zero, Văn phòng Thủ tướng và Nội các (Linda Rademakers, Trợ lý, phòng Điều phối Chính sách và Will Blomfield, Cố vấn Chính sách Chiến lược, phòng Chính sách Chiến lược); Làm việc với Cơ quan quản lý năng lượng sạch Australia (Ông Matthew Power, Giám đốc, Phòng Mục tiêu Năng lượng Tái tạo, Bà Michelle Crosbie, Giám đốc, Phòng Phân tích và thảm thực vật, Ông Cameron Mathie, Quyền giám đốc, Thị trường Carbon và bà Erica Welton).

Đoàn công tác cũng đã thăm quan phòng triển lãm nghệ thuật NSW; Làm việc với Viện Net Zero – Trường ĐH Sydney; Tham quan Trường Đại học Sydney; Làm việc với Bộ trưởng Bộ Công Thương Anoulack Chanthivong; Làm việc với Tập đoàn Tài chính Năng lượng sạch (Bà Monique, Giám đốc Đầu tư phụ trách Tài chính bền vững và tái tạo, ông Rory Lonergan, Giám đốc Đầu tư phụ trách Hạ tầng và các giải pháp thay thế): làm việc với Viện Lowy (Bà Michelle Lyon, nghiên cứu viên, Trung tâm phát triển Ấn độ Dương Thái Bình Dương, Bà Susannah Patton, Giám đốc, Chương trình Đông Nam Á, Ông Ryan Neelam, Giám đốc, Chương trình Dư luận Chính sách ngoại giao).

Chuyến công tác này, Đoàn công tác đã tổng hợp kết quả nghiên cứu, khảo sát về “Chuyển đổi năng lượng và an ninh năng lượng” tại Úc thật tỉ mỉ, kỹ lưỡng, cụ thể như sau:

Về vấn đề chuyển đổi năng lượng ở Úc: Lĩnh vực năng lượng tái tạo của Úc tăng trưởng vượt bậc nhờ sự kết hợp giữa công nghệ hàng đầu thế giới, nguồn tài nguyên thiên nhiên, cơ chế chính sách và các cơ hội đầu tư. Với nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào phù hợp để phát triển năng lượng tái tạo, từ năng lượng mặt trời cường độ cao, tài nguyên gió và đường bờ biển dài với mật độ năng lượng sóng biển lớn. Nhiều công nghệ năng lượng tái tạo hàng đầu được phát triển ở quốc gia này và ứng dụng trên toàn cầu. Năng lượng tái tạo chiếm 35,9% tổng sản lượng điện của Australia vào năm 2022, tăng 3,4% so với năm trước đó. Chính phủ Australia đặt mục tiêu nâng tỷ trọng năng lượng tái tạo đạt 82% vào năm 2030.

Đoàn công tác thăm và làm việc tại trường Đại học New South Wales.

 Chiến lược chuyển đổi năng lượng của Úc hướng tới mục tiêu giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch và thúc đẩy sử dụng năng lượng tái tạo, đồng thời đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững. Chiến lược này tập trung vào việc giảm phát thải khí nhà kính, cải thiện hiệu suất năng lượng và tăng cường tính ổn định của hệ thống điện quốc gia. Úc đã cam kết đạt được mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, với mục tiêu trung gian giảm 43% lượng phát thải vào năm 2030 so với mức năm 2005. Các chính sách giảm phát thải tập trung vào việc thúc đẩy sử dụng năng lượng sạch, giảm khí nhà kính trong các lĩnh vực sản xuất điện, giao thông, công nghiệp và nông nghiệp. Úc đã tham gia vào các dự án hợp tác quốc tế để chia sẻ kinh nghiệm và công nghệ trong lĩnh vực năng lượng tái tạo và giảm phát thải. 

Úc có tiềm năng lớn về năng lượng tái tạo, đặc biệt là năng lượng mặt trời và gió. Các tiểu bang như Nam Úc, Victoria và New South Wales đã đạt được những tiến bộ lớn trong việc phát triển và sử dụng năng lượng tái tạo. Úc đã ký kết nhiều thỏa thuận quốc tế và tham gia các sáng kiến toàn cầu về biến đổi khí hậu và năng lượng, như Hiệp ước Paris, tăng cường hợp tác với các nước trong khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và ASEAN về chuyển đổi năng lượng, đồng thời thu hút đầu tư từ các nhà đầu tư quốc tế cho các dự án năng lượng sạch.

Chính phủ Úc cũng triển khai một loạt các chính sách khuyến khích phát triển năng lượng sạch, bao gồm cơ chế cấp phép cho các dự án năng lượng tái tạo, giảm thuế cho các nhà đầu tư và trợ giá cho người tiêu dùng sử dụng năng lượng sạch cũng như phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực năng lượng tái tạo và kỹ thuật số, nhằm hỗ trợ chuyển đổi năng lượng một cách hiệu quả; khuyến khích sự tham gia của các hộ gia đình, doanh nghiệp nhỏ và các cộng đồng địa phương vào các dự án năng lượng tái tạo. Tuy nhiên, việc chuyển từ năng lượng hóa thạch sang năng lượng tái tạo sẽ đòi hỏi các chương trình tái đào tạo cho lực lượng lao động, và các khoản đầu tư vào các ngành công nghiệp mới.  Các chính sách hiện nay đang từng bước chuyển đổi, nhưng vẫn cần có sự hỗ trợ mạnh mẽ hơn từ chính phủ và các nhà hoạch định chính sách để đạt được mục tiêu dài hạn.

Về an ninh năng lượng ở Úc: Trong bối cảnh chuyển đổi năng lượng, vấn đề an ninh năng lượng ở Úc cũng được đặt ra. Chính phủ, doanh nghiệp và người dân Úc quan tâm đến tính ổn định của nguồn cung cấp điện khi giảm phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch, và việc đảm bảo nguồn cung điện trong những điều kiện thời tiết khắc nghiệt. Úc có nguồn tài nguyên năng lượng phong phú, bao gồm than đá, khí đốt tự nhiên, dầu mỏ và tiềm năng lớn cho năng lượng tái tạo. Tuy nhiên, biến đổi khí hậu và thiên tai có thể ảnh hưởng tiêu cực đến an ninh năng lượng của Úc. Những hiện tượng thời tiết cực đoan như cháy rừng, bão lũ và hạn hán có thể gây thiệt hại cho cơ sở hạ tầng năng lượng, làm gián đoạn sản xuất và phân phối điện. 

Một trong những thách thức lớn nhất đối với an ninh năng lượng của Úc là khả năng duy trì tính ổn định của lưới điện, đặc biệt khi tỷ lệ năng lượng tái tạo tăng cao. Lưới điện cần phải đủ linh hoạt và có khả năng tích hợp các nguồn năng lượng có tính gián đoạn như năng lượng mặt trời và gió. Công nghệ lưu trữ năng lượng đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo an ninh năng lượng. Các hệ thống pin lưu trữ điện giúp duy trì nguồn cung khi sản xuất năng lượng giảm. Ngoài ra, khả năng phân phối năng lượng hiệu quả từ các vùng có nguồn năng lượng tái tạo dồi dào đến các khu vực có nhu cầu cao cũng là yếu tố quan trọng. Các dự án đường dây tải điện cao áp xuyên bang đang được triển khai để tăng cường khả năng này.

 Về các công nghệ hiện đại được ứng dụng trong chuyển đổi năng lượng ở Úc: Úc đang áp dụng nhiều công nghệ hiện đại nhằm thúc đẩy quá trình chuyển đổi năng lượng. Cụ thể một số lĩnh vực như: lĩnh vực năng lượng mặt trời; lĩnh vực lưu trữ năng lượng; lĩnh vực quản lý năng lượng điện; Công nghệ hydro xanh;  Công nghệ thu giữ và lưu trữ carbon (Carbon Capture and Storage - CCS);…

Dựa trên những thành công và những thách thức mà Úc đang gặp phải trong quá trình chuyển đổi năng lượng và đảm bảo an ninh năng lượng, từ kết quả nghiên cứu, khảo sát thực tế, Đoàn công tác đã đưa ra một số kiến nghị cho Việt Nam nói chung và tỉnh Quảng Ninh nói riêng để thúc đẩy quá trình chuyển đổi năng lượng một cách bền vững và hiệu quả. Cụ thể là: Đảm bảo tính nhất quán trong chính sách năng lượng; Tăng cường đầu tư vào công nghệ lưu trữ năng lượng; Phát triển cơ sở hạ tầng lưới điện thông minh và đa dạng hóa nguồn cung năng lượng; Tăng cường hợp tác quốc tế; Phát triển mô hình đầu tư công - tư (PPP).

Bài, ảnh: Hương Anh

 

 

Nâng cao hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập

 

Nguyên Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ký ban hành Nghị quyết số 19-NQ/TW về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập. Theo đó, thực hiện Kế hoạch số 179-KH/DDUK ngày 30/10/2024 của Ban Thường vụ Đảng uỷ Khối các cơ quan tỉnh về việc thực hiện Kết luận số 62-KL/TW của Bộ Chính trị “Về thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập”; Đảng uỷ Sở KH&CN đã ban hành Kế hoạch tổ chức triển khai thực hiện đảm bảo mục đích, yêu cầu đặt ra.

 

Theo đó, tiếp tục tuyên truyền, quán triệt và triển khai thực hiện có hiệu quả các quan điểm, định hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập; cấp uỷ các chi bộ chủ động, tăng cường phối hợp với lãnh đạo chuyên môn cùng cấp tiếp tục thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện và đồng bộ hệ thống đơn vị bảo đảm tinh gọn, có cơ cấu hợp lý, có năng lực tự chủ, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, triển khai thực hiện có hiệu quả công tác tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, lao động (CCVCLĐ). Cần phân công, xác định rõ trách nhiệm của cấp uỷ; Quá trình thực hiện phải kết hợp hài hoà, hợp lý giữa tính đặc thù với tính phổ biến, giữa tính kế thừa, ổn định với đổi mới phát triển, phù hợp với tình hình thực tiễn, tích cực, chủ động, không nóng vội, chủ quan. Phải có quyết tâm chính trị cao, hành động quyết liệt, tăng cường phân cấp, phan quyền tối đa theo hướng tạo sự chủ động, tích cực, sáng tạo của từng đơn vị.

Các nhiệm vụ và giải pháp được tập trung triển khai: Thứ nhất, là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước, phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể và tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập. Các chi bộ đảng trực thuộc đẩy mạnh quán triệt, tuyên truyền nội dung Kết luận số 62-KL/TW của Bộ Chính trị nhằm tạo sự đồng thuận, thống nhất cao trong nhận thức, trách nhiệm trong việc tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 23/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII và  các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn, triển khai có liên quan, thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy, cơ cấu đội ngũ viên chức và tinh giản số lượng người làm việc bảo đảm tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả….

Thứ hai, là phối hợp với lãnh đạo Sở, các cơ quan, đơn vị có liên quan theo chức năng, nhiệm vụ thẩm quyền thực hiện  hoặc báo cáo cấp có thẩm quyền thực hiện.

Tiếp tục đẩy mạnh việc sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công lập theo lộ trình. Bám sát các quy định hiện hành, hướng dẫn của các sở, ngành liên quan để báo cáo, đề nghị UBND tỉnh.

Kịp thời triển khai các quy định của Trung ương về đổi mới cơ chế quản lý, nâng cao năng lực quản trị của đơn vị sự nghiệp công lập bảo đảm chặt chẽ, hiệu quả góp phần nâng cao chất lượng hoạt động cung ứng các dịch vụ sự nghiệp công, đáp ứng yêu cầu của xã hội.

Các đơn vị sự nghiệp công lập sau sắp xếp phải có tổ chức bộ máy phù hợp, số người làm việc phải bảo đảm theo vị trí việc làm  và cơ cấu đội ngũ viên chức, phương thức quản lý theo hướng tiên tiến, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, khoa học công nghệ, hiệu quả hoạt động được đánh giá dựa trên sản phẩm, kết quả công việc.

Tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả Đề án vị trí việc làm, Đề án tự chủ đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt; gắn công tác tuyển dụng, tiếp nhận, bố trí, phân công nhiệm vụ, quy hoạch, bổ nhiệm….với vị trí việc làm, cơ cấu chức danh nghề nghiệp viên chức. Thực hiện tinh giản tổ chức bộ máy, biên chế, bố trí, sắp xếp, sử dụng, tuyển dụng viên chức, ký hợp đồng lao động bảo đảm theo quy định hiện hành, phân cấp của tỉnh và của Sở.

Tiếp tục rà soát, xây dựng và triển khai thực hiện nghiêm các quy định về định mức số lượng người làm việc, xây dựng định mức kinh tế - kỹ thuật để định giá từng laoij hình dịch vụ sự nghiệp công, hoàn thành lộ trình tính giá dịch vụ sự nghiệp công, xác định rõ chính sách phúc lợi, chính sách an sinh  trong giá dịch vụ sự nghiệp công; triển khai thực hiện có hiệu quả cơ chế kiểm tra, kiểm soát, quản trị theo hướng tăng cường dân chủ, công khai, minh bạch.

Chú trọng tuyển dụng những cán bộ công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín phục vụ nhân dân, vì sự phát triển của sự nghiệp khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, tiêu biểu về “làm đúng, làm nhanh, làm tốt”, với phương châm “5 thật, 6 dám”; nói đi đôi với làm, theo việc đến cùng, làm dứt điểm, đo lường được kết quả, hiệu quả, luôn giữ chữ “tín”, lấy việc nâng cao chất lượng phục vụ và sự hài lòng của người dân, doanh ngjieepj làm tiêu chí phấn đấu để nhân lên thành sức mạnh lan toả thi đua trong cơ quan và xã hội;…..

Triển khai thực hiện Kế hoạch này, các chi bộ đảng trực thuộc có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai thực hiện có hiệu quả các quan điểm, định hướng, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập theo chủ trương, chỉ đạo, hướng dẫn của Trung ương, của tỉnh và các nhiệm vụ, giải pháp đã nêu trong Kế hoạch.

Nguyễn Thị Thu Hương

 

 

HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

 

Đẩy mạnh Chuyển đổi số trong giải quyết thủ tục hành chính

 

Xác định việc chuyển đổi số là nhiệm vụ trọng tâm góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, thời gian qua, Quảng Ninh đã đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong giải quyết thủ tục hành chính (TTHC), tạo thuận lợi nhất cho người dân và doanh nghiệp.

 

Với mục tiêu lấy người dân, doanh nghiệp là trung tâm, chủ thể, động lực của chuyển đổi số, thời gian qua, Trung tâm Hành chính công các cấp luôn chú trọng cải cách TTHC gắn với chuyển đổi số. Nổi bật là đẩy mạnh triển khai việc giải quyết TTHC theo quy trình 5 bước trên môi trường điện tử (tiếp nhận, thẩm định, phê duyệt, ký số, trả kết quả). Trong tháng 9/2024, kết quả thực hiện số hóa hồ sơ và trả kết quả bản điện tử đạt trên 99%.

Hiện nay các sở, ban, ngành cung cấp 1.000 dịch vụ công trực tuyến, trong đó có 628 TTHC được cung cấp dịch vụ công trực tuyến toàn trình (đạt 62,8%) và 372 TTHC cung cấp dịch vụ công trực tuyến một phần (đạt 37,2%). Cấp huyện cung cấp 200 dịch vụ công trực tuyến, trong đó 97 TTHC cung cấp dịch vụ công trực tuyến toàn trình (đạt 48,5%) và 103 dịch vụ công trực tuyến một phần (đạt 51,5%). Cấp xã cung cấp 78 dịch vụ công trực tuyến, trong đó có 31 TTHC cung cấp dịch vụ công trực tuyến toàn trình (đạt 39,7%), 47 dịch vụ công trực tuyến một phần (đạt 60,3%).

Trong tháng 9, số hồ sơ thực hiện dịch vụ công trực tuyến cấp tỉnh là 5.819/5.863 hồ sơ (đạt 99,2%); cấp huyện là 15.163/15.212 hồ sơ (đạt 99,7%), cấp xã là 12.259/12.285 hồ sơ (đạt 99,8%); tiền phí, lệ phí giải quyết TTHC qua các hình thức không dùng tiền mặt đạt 100%.

Để tiếp tục tạo sự tiện lợi cho người dân trong thực hiện TTHC, Trung tâm Phục vụ hành chính công đang phối hợp với Sở Thông tin và Truyền thông cùng doanh nghiệp công nghệ triển khai mô hình “Tự động hóa Trung tâm Phục vụ hành chính công thông qua tương tác kiosk” đối với 29 TTHC của 3 cấp chính quyền. Khi mô hình này chính thức đưa vào vận hành tại Trung tâm Phục vụ hành chính công, người dân có thể sử dụng kiosk này đăng nhập tài khoản dịch vụ công qua VNeID hoặc số căn cước, nộp thủ tục trực tuyến. Kết quả TTHC sẽ được chuyển về bằng đường bưu điện hoặc kết quả bản điện tử được chuyển vào tài khoản dịch vụ công của người dân.

Việc nỗ lực phổ cập hạ tầng số trên toàn tỉnh cũng góp phần đẩy mạnh chuyển đổi số trong giải quyết TTHC ở những địa phương biên giới, miền núi. Tại huyện biên giới Bình Liêu, nhờ việc phổ cập sóng di động 4G (đạt 100%) và điện thoại thông minh (đạt 70%), người dân đã quen với việc sử dụng điện thoại thông minh trong quy trình giải quyết TTHC.

Ông Vi Ngọc Nhất, Giám đốc Trung tâm hành chính công huyện Bình Liêu, cho biết: 100% người dân khi đến Trung tâm hành chính công huyện, hay Bộ phận một cửa cấp xã đều biết sử dụng điện thoại thông minh để thực hiện các TTHC, trong đó nổi bật là dùng điện thoại để tra cứu thủ tục và đăng nhập vào tài khoản cổng dịch vụ công quốc gia qua ứng dụng VNeID, sử dụng ứng dụng cung cấp thông tin thay cho giấy tờ như căn cước hay thông tin gia đình.

Những hiệu quả đem lại trong việc chuyển đổi số lĩnh vực TTHC đã góp phần tiếp tục cải thiện và nâng cao chỉ số cải cách hành chính, và là một trong những yếu tố quan trọng để tỉnh tiếp tục đạt mục tiêu trong lộ trình chuyển đổi số toàn diện tạo sự thuận lợi và hài lòng hơn nữa cho người dân, doanh nghiệp, qua đó góp phần hoàn thành các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

Đặng Việt Hưng

 

 

Đẩy mạnh chuyển đổi số trong giáo dục ở TP Uông Bí

 

Với mục tiêu đưa việc dạy và học trên môi trường số trở thành hoạt động thường xuyên, liên tục, hiện nay ngành GD&ĐT TP Uông Bí đã và đang đẩy mạnh chuyển đổi số nhằm đạt được mục tiêu này.

 

Hiện nay, 100% trường học trên địa bàn TP Uông Bí đã triển khai sử dụng chữ ký số tới cán bộ quản lý và giáo viên. Các trường học đã sử dụng phần mềm quản lý học tập như Olm.vn, Azota, Padlet, Classroom… trong kết nối giữa nhà trường, giáo viên với học sinh, phụ huynh và tổ chức các hoạt động giáo dục. Bên cạnh đó, có hơn 3.000 học liệu được số hóa, bao gồm bài giảng điện tử, học liệu số đa phương tiện, sách giáo khoa điện tử, phần mềm mô phỏng và các học liệu khác cùng với hệ thống ngân hàng câu hỏi trực tuyến cho các môn học giúp giáo viên và học sinh dễ dàng nghiên cứu tài liệu.

Bên cạnh đó, 100% trường học trên địa bàn đã triển khai nền tảng quản trị dựa trên dữ liệu và công nghệ số như quản lý học sinh, bao gồm: Quản lý hồ sơ, kết quả học tập; quản lý đội ngũ cán bộ, giáo viên đảm bảo kết nối thông suốt trong hệ thống quản lý trường học trực tuyến của tỉnh và cơ sở dữ liệu ngành giáo dục.

Trường THCS Nguyễn Trãi là một trong những ngôi trường tích cực thực hiện chuyển đổi số của TP Uông Bí. Thời gian qua nhà trường đã đẩy mạnh triển khai công tác chuyển đổi số trong dạy và học, khuyến khích thầy cô giáo nghiên cứu, học hỏi, soạn bài giảng điện tử, ứng dụng công nghệ thông tin hiệu quả, sáng tạo vào bài giảng, giúp tăng tính tương tác, sự hứng thú cho học sinh trong mỗi tiết học.

Hiện nhà trường có 1 phòng học với phòng 25 máy tính có kết nối Internet thực hành cho môn Tin học; 6 phòng học thông minh, mỗi phòng có tivi thông minh màn hình cảm ứng, hệ thống camera, loa, máy tính xách tay; 13 phòng học còn lại có máy chiếu, hệ thống máy tính, loa, màn hình tivi, kết nối mạng Internet. Các thầy, cô giáo đều có máy tính xách tay phục vụ cho việc giảng dạy.


Ngành GD&ĐT TP Uông Bí phối hợp MobiFone tổ chức tập huấn các giải pháp chuyển đổi số (tháng 10/2024).

Đặng Thái Hân, học sinh Trường THCS Nguyễn Trãi, chia sẻ: Trước đây, với những bài giảng thông thường chúng em phải cố gắng hình dung, mường tượng trong đầu những sự kiện, nhân vật mà thầy cô thuyết giảng. Hiện nay việc sử dụng phòng học thông minh giúp cho chúng em có được cái nhìn trực quan sinh động với những sự kiện, nhân vật cụ thể, từ đó kích thích tư duy học tập tốt hơn.

Với nỗ lực trong chuyển đổi số, cũng như nâng cao chất lượng dạy và học, trong năm học 2023-2024, Trường THCS Nguyễn Trãi có 56 học sinh đoạt giải cấp thành phố, 21 học sinh đoạt giải cấp tỉnh.

Được biết, từ năm học 2023-2024, toàn bộ cơ sở giáo dục trên địa bàn thành phố Uong Bí thực hiện thanh toán học phí và các khoản dịch vụ khác bằng phương thức không dùng tiền mặt; tổ chức đăng ký tuyển sinh đầu cấp lớp 1, lớp 6 trên môi trường số.

“Thời gian tới, ngành GD&ĐT thành phố tiếp tục tăng cường chỉ đạo hoạt động quản lý và dạy học, đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin và khai thác dữ liệu phục vụ chuyển đổi số quốc gia. Triển khai phần mềm quản lý trường học SMAS, qua đó 100% trường học triển khai học bạ điện tử và sổ liên lạc điện tử theo Đề án 06 của Chính phủ. Đồng thời, triển khai hướng dẫn các cơ sở giáo dục trực thuộc thu thập minh chứng phục vụ tự đánh giá mức độ chuyển đổi số khoa học và có tính liền mạch hơn. Bên cạnh đó, tiếp tục thông tin tuyên truyền các nội dung chuyển đổi số nhằm nâng cao hơn nữa nhận thức về mục đích, ý nghĩa, sự cần thiết của chuyển đổi số là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt, vừa cấp bách, vừa lâu dài” - Bà Trần Thị Hồng Thu, Phó Trưởng phòng GD&ĐT TP Uông Bí, cho biết.

Bài, ảnh: Nguyễn Ngọc Trâm

 

  Tiên Yên thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện

 

Với mục tiêu thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện và toàn dân, huyện Tiên Yên đã chú trọng tuyên truyền, làm thay đổi tư duy, nhận thức của người dân về tiện ích của chuyển đổi số.

 

Theo ông Dực Hoàng Việt Tùng, Chủ tịch UBND xã Đại Dực, huyện Tiên Yên thì Đại Dực là xã vùng cao của huyện với 100% người DTTS. Việc thực hiện chuyển đổi số là thách thức không nhỏ đối với địa phương. Với quyết tâm, nỗ lực chuyển đổi số, cấp ủy, chính quyền địa phương đã quyết liệt chỉ đạo triển khai các hoạt động chuyển đổi số đến với người dân. Địa phương đã đẩy mạnh tuyên truyền lợi ích của chuyển đổi số đến với người dân, thông qua nhiều hình thức như họp thôn, hệ thống loa truyền thanh; tổ chức tập huấn cho 7/7 Tổ công nghệ số cộng đồng thôn; hỗ trợ người dân cài đặt và hướng dẫn sử dụng các ứng dụng tiện ích trên điện thoại thông minh. Đặc biệt, địa phương tranh thủ các nguồn lực hỗ trợ thúc đẩy phát triển hạ tầng số rộng khắp, hiện đại, phổ cập tới người dân và tuyên truyền vận động nhân dân tích cực ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động sinh hoạt, kinh doanh.

Với sự quyết tâm và vào cuộc mạnh mẽ từ các cấp chính quyền, hoạt động chuyển đổi số trên địa bàn xã Đại Dực đã có nhiều chuyển biến rõ nét. Người dân tích cực tham gia, sử dụng và kinh doanh trên môi trường mạng, từ đó góp phần thay đổi tư duy, hình thức làm kinh tế theo hướng hiện đại hóa. Anh Lỷ Văn Quạn (thôn Phài Giác, xã Đại Dực) cho biết: Gia đình tôi kinh doanh sản phẩm ớt chào mào. Trước đây việc quảng bá sản phẩm, tiếp cận thị trường gặp nhiều khó khăn. Được sự tuyên truyền của chính quyền địa phương, tìm hiểu thông tin trên mạng, tôi đã cài đặt, đăng ký tài khoản ngân hàng, cập nhật sản phẩm nông nghiệp lên sàn thương mại điện tử để tiêu thụ. Nhờ vậy, sản phẩm ớt chào mào của gia đình tôi được nhiều người biết đến và đơn đặt hàng ngày càng nhiều. Việc thanh toán lại cực kỳ đơn giản bằng hình thức chuyển khoản cá nhân liên kết trực tiếp với ngân hàng, rất tiện lợi. Việc tiếp cận, đưa số hóa vào cuộc sống đã làm cho cuộc sống của người dân thay đổi rất nhiều trong mọi hoạt động. Không chỉ giúp chúng tôi bán hàng, mà còn giúp người dân có thể tìm hiểu thêm về những thông tin kỹ thuật trồng trọt, quảng bá sản phẩm của mình rộng rãi hơn.

Để đẩy mạnh công tác chuyển đổi số trên địa bàn, huyện Tiên Yên đã tăng cường việc triển khai các kế hoạch truyền thông về chuyển đổi số từng năm theo hướng trọng tâm. Trong đó, tập trung, chú trọng đổi mới và phát huy hiệu quả các giải pháp truyền thông về chuyển đổi số trên các hạ tầng truyền thông; tổ chức, tham gia các cuộc thi chuyển đổi số cấp huyện, cấp tỉnh; triển khai 100% cán bộ công chức, viên chức sử dụng nền tảng số, các công cụ số để xử lý công việc; đẩy mạnh ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững; tăng cường việc triển khai chuyển đổi SIM và máy điện thoại 2G lên sim 4G và Smartphone; tăng cường tổ chức tập huấn, bồi dưỡng “công dân điện tử” tại các khu dân cư; số hóa hồ sơ, thanh toán phí, lệ phí trực tuyến trong giải quyết thủ tục hành chính, hướng dẫn niêm yết công khai thủ tục hành chính trên cổng dịch vụ công…

Đến nay, công tác chuyển đổi số toàn diện trên địa bàn huyện Tiên Yên đã tạo được nhiều chuyển biến, hiệu quả tích cực, đời sống người dân ngày càng nâng lên. Huyện trở thành địa phương có nhiều xã nhất lắp Camera ứng dụng trí tuệ nhân tạo AI, với 108 mắt tại các trục đường giao thông chính, khu trung tâm và khu dân cư đông người. Từ đó, góp phần lớn trong công tác đảm bảo an ninh trật tự, an toàn giao thông và nâng cao ý thức không vứt rác bừa bãi trên các tuyến đường.

Song song với đó, hiện nhiều người dân tích cực sử dụng những tiện ích được phát triển từ chuyển đổi số, như: Dịch vụ công trực tuyến để làm thủ tục hành chính; CCCD gắn chíp đi khám, chữa bệnh thay cho BHYT giấy; thanh toán không dùng tiền mặt khi đi mua sắm... Theo thống kê của huyện Tiên Yên, 9 tháng năm 2024, toàn huyện có 2.437 đối tượng chính sách xã hội đang hưởng trợ cấp hằng tháng, trong đó số đối tượng chi trả qua tài khoản 1.983 người, đạt 81%; số người hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH qua ATM là 1.173/1.765, đạt  66,45%; có 99,06% doanh nghiệp, tổ chức và 96,25% hộ kinh doanh cá thể nộp thuế theo phương pháp kê khai thực hiện nộp thuế điện tử; tổng số hồ sơ khai thác, sử dụng lại thông tin, dữ liệu số hóa đạt 100%; mức độ hài lòng trong tiếp nhận, giải quyết thủ tục hành chính của người dân, doanh nghiệp đạt 100%...

Để đẩy mạnh hoạt động chuyển đổi số toàn diện, huyện Tiên Yên sẽ tích cực nghiên cứu, đầu tư trang thiết bị, nâng cấp hạ tầng, hoàn thiện hệ thống thông tin tại địa phương, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chuyển đổi số, đặc biệt là hệ thống truyền thanh ứng dụng công nghệ thông tin đối với các xã vùng sâu, vùng xa. Đồng thời, tiếp tục hoàn thiện các nhiệm vụ chuyển đổi số trong năm 2024 theo kế hoạch của huyện đã được phê duyệt và bắt tay vào triển khai xây dựng các nhiệm vụ về chuyển đổi số toàn diện năm 2025, nhằm hướng tới chuyển đổi số toàn diện và xây dựng Tiên Yên thành huyện văn minh, hiện đại, giàu đẹp – Đó là lời chia sẻ của ông Phạm Văn Hoài, Phó Chủ tịch UBND huyện Tiên Yên.

Cao Minh Đức

 

 

Đại học Hạ Long chú trọng các hoạt động, phong trào sinh viên nghiên cứu khoa học

 

Trường Đại học Hạ Long chú trọng các hoạt động, phong trào sinh viên nghiên cứu khoa học (NCKH) nhằm tạo ra những sản phẩm hữu ích, có tính ứng dụng cao phục vụ cộng đồng.

 

Sinh viên Khoa Nuôi trồng thủy sản của trường Đại học Hạ Long tham gia nghiên cứu, sản xuất Chế phẩm sinh học học phục vụ nuôi trồng thuỷ sản (Ảnh: Thu Hương)

10 năm qua Trường Đại học Hạ Long có 202 đề tài NCKH của 572 sinh viên được triển khai; 120 dự án, ý tưởng khởi nghiệp của sinh viên. Nhiều đề tài đã được đánh giá, đoạt giải cao trong các cuộc thi, hội thi sáng tạo. Trong đó có 1 giải nhất, 1 giải ba tại Cuộc thi Sáng tạo du lịch quốc tế dành cho sinh viên Đại học Trung Quốc - ASEAN lần thứ I; 8 giải thưởng sinh viên NCKH tại Hội thi khoa học sinh viên toàn quốc “Olympic kinh tế lượng và ứng dụng”; 1 giải ba, 2 giải khuyến khích cho sinh viên NCKH do Bộ GD&ĐT tổ chức; 4 giải tại Hội thi STKT tỉnh và Sáng tạo dịch vụ tỉnh; 42 đề tài NCKH xuất sắc của sinh viên được nghiệm thu cấp trường...

Nhiều đề tài NCKH của sinh viên mang tính ứng dụng cao, phù hợp với định hướng hoạt động KHCN của nhà trường và của tỉnh. Nổi bật là đề tài đoạt giải nhất tại Hội đồng nghiệm thu NCKH cấp trường “Ứng dụng công nghệ nhận dạng trong quản lý điểm danh sinh viên theo các lớp tín chỉ tại Trường Đại học Hạ Long” của sinh viên Vũ Anh Dũng (K7, Khoa CNTT). “Dưới sự hướng dẫn của các thầy cô, chúng em đã tích cực tham gia NCKH, nhằm vận dụng lý thuyết và thực hành đã và đang học để giải quyết các vấn đề trong thực tế. Từ những kiến thức, kết quả nghiên cứu đạt được, chúng em có cơ hội phát triển, mở rộng hơn nữa các đề tài, từ đó ứng dụng vào thực tiễn cho công việc sau này”, Dũng cho biết.

Sinh viên Phoyphailinh Vilaysouk, người Lào (K6, Khoa Môi trường), cùng các bạn trong Khoa nghiên cứu thành công và đoạt giải 3 cấp trường đề tài NCKH “Sử dụng dịch chiết tỏi đen ức chế quá trình sinh trưởng vi khẩu gây bệnh đường ruột trong nuôi trồng thủy sản”. Phoyphailinh Vilaysouk chia sẻ: “Em rất cảm ơn thầy cô, nhà trường đã định hướng, tạo điều kiện để chúng em tiếp cận với NCKH một cách thuận lợi và hiệu quả. Từ đó chúng em có cơ hội tích lũy kinh nghiệm, học hỏi phương pháp tư duy khoa học, giải quyết vấn đề, phương pháp viết báo cáo khoa học, làm việc nhóm cũng như trình bày kết quả, ý tưởng khoa học”.

Tiến sĩ Phan Thị Huệ, Phó hiệu trưởng Trường Đại học Hạ Long, cho biết: Trong chương trình đào tạo của nhà trường có học phần là phương pháp luận NCKH nhằm trang bị, bồi dưỡng kiến thức năng lực và phương pháp NCKH, tiến trình thực hiện một đề tài khoa học cho sinh viên ngay từ năm thứ nhất. Để tạo điều kiện cho sinh viên NCKH, nhà trường cho các em sử dụng phòng thí nghiệm, cơ sở vật chất; được giảng viên tư vấn hỗ trợ, hỗ trợ kinh phí thực hiện đề tài từ 1-10 triệu đồng tùy theo cấp độ tham gia; liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp để tài trợ cho sinh viên NCKH.

Trung tâm KH&CN của nhà trường được thành lập năm 2019, tạo môi trường cho sinh viên được tiếp cận, tham gia các hoạt động NCKH cùng các giảng viên và các nhà khoa học trong nước, quốc tế. Bên cạnh đó, nhà trường tạo cơ hội cho sinh viên tham gia giải thưởng NCKH các cấp, các cuộc thi sáng tạo dành cho sinh viên; là thành viên của nhiều dự án khoa học quốc tế tài trợ bởi UNDP, CHLB Đức, Nhật Bản... Năm 2024 có 10 sinh viên Khoa Môi trường của nhà trường được tham gia Dự án Phòng chống, giảm thiểu và tái chế rác thải ngư cụ trên vùng biển Việt Nam (REVFIN) tại Đức. Trong đó, 4 sinh viên đã được tập huấn tại Đại học Ostfalia (Đức); 4 sinh viên khác sẽ tham gia chương trình tập huấn của Dự án REVFIN vào năm 2025.

Thúc đẩy hoạt động NCKH góp phần hình thành năng lực tự học, tự nghiên cứu cho sinh viên; từ đó góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo là một trong những giải pháp quan trọng để Đại học Hạ Long thực hiện mục tiêu chiến lược trở thành trung tâm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, trung tâm KHCN, khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo của tỉnh và khu vực.

Nguyễn Thị Hoa

 

 

Nhà khoa học của nhà nông

 

Niềm vinh dự của tỉnh Quảng Ninh tại Lễ tôn vinh Nhà khoa học của nhà nông lần thứ V và trao giải Cuộc thi Sáng tạo kỹ thuật nhà nông lần thứ X năm 2024 do Trung ương Hội Nông dân Việt Nam vừa phối hợp với các bộ, ngành tổ chức vừa qua là trong số 56 Nhà Khoa học của nhà nông được tôn vinh, có bà Trần Thị Hồng, phường Kim Sơn, TX Đông Triều, nguyênTổng Giám đốc Công ty CP giống cây trồng Quảng Ninh. Những cá nhân được vinh danh Nhà khoa học của nhà nông gồm nhà khoa học, trí thức, nhà sáng chế và nông dân sáng tạo có nghiên cứu, sáng kiến cải tiến quy trình kỹ thuật được ứng dụng rộng rãi, mang lại lợi ích cho nông dân.

 

Dành trọn tâm huyết, tình yêu cho từng cây lúa được ươm mầm trên mảnh đất quê hương, nữ kỹ sư Trần Thị Hồng (SN 1968), nguyên Tổng Giám đốc Công ty CP Giống cây trồng Quảng Ninh, vẫn chưa nguôi những trăn trở với mong muốn được cống hiến nhiều hơn...

Bà Trần Thị Hồng (áo dài đỏ, đứng giữa) đón nhận Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp Khoa học và Công nghệ.

Sinh ra trong gia đình có truyền thống làm nghề mỏ nhưng tuổi thơ gắn với một thời kỳ khó khăn, thiếu thốn, những bát cơm là gạo kho cũ độn với khoai, sắn, hạt bo bo... đã gieo vào trong tôi suy nghĩ sau này mình phải làm nghề chỉ luôn được ăn gạo mới. Ước mơ thời thơ bé ấy lại trở thành động lực để tôi lựa chọn ngành học về nông nghiệp và quyết tâm theo đuổi, gắn bó đến tận bây giờ - Đó là những chia sẻ cởi mở của bà Hồng.

Bà Trần Thị Hồng là người luôn say mê, tích cực nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ để chọn tạo được những giống lúa mới, tốt, cho năng suất cao. Trong đó, nhiều năm liền bà là chủ nhiệm đề tài khoa học cấp tỉnh về nhiệm vụ khảo nghiệm các giống lúa mới. Đồng thời, là tác giả chính chọn tạo ra 14 giống lúa thuần được Bộ NN&PTNT công nhận và 17 giống lúa thuần mới được Bộ NN&PTNT cấp văn bằng bảo hộ giống cây trồng.

 

Bà Trần Thị Hồng trực tiếp kiểm tra các giống lúa đang được trồng khảo nghiệm tại Công ty CP Giống cây trồng Quảng Ninh.

Không chỉ cung cấp lúa giống đầu dòng cho TX Đông Triều và toàn tỉnh, những hạt giống lúa của Công ty đã đặt chân đến cả những tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên xa xôi như Đắk Lắk, Kon Tum. Bà Hồng cùng cán bộ công ty cũng thực hiện phục tráng, bảo tồn nguồn gen lúa bản địa của tỉnh như nếp cái hoa vàng Đông Triều, bao thai lùn Quảng Ninh, bãi đỏ Đông Triều, giúp người nông dân nâng cao thu nhập và tạo nên những sản phẩm thuộc chương trình OCOP của tỉnh. Nhiều giống lúa đã đi vào lịch sử một thời xoá đói, giảm nghèo như: giống lúa Khang Dân 18, Q5, Hương thơm số 1, Kim cương 90, ĐT34, ĐT37... Các giống lúa chất lượng mang lại giá trị hàng hoá cao như Nếp ĐT52, Hồng hương ĐT128, ĐT100, ĐT120 đã trở thành thương hiệu và niềm tự hào của Công ty CP Giống cây trồng Quảng Ninh. 

Chị Trần Thị Hồng cùng các kỹ sư của Công ty CP Giống cây trồng Quảng Ninh kiểm tra giống lúa mới tại Khu khảo nghiệm giống lúa mới của Công ty.

Trong những cuộc trò chuyện cởi mởi, bà Hồng đã tâm tâm sự: “Tôi hy vọng những giống lúa chất lượng cao do Công ty CP Giống cây trồng Quảng Ninh sản xuất sẽ trở thành giống lúa được trồng tập trung trên những cánh đồng mẫu lớn của tỉnh. Từ đó, lúa không chỉ nhằm đảm bảo an ninh lương thực, làm giàu cho người nông dân, mà còn trở thành những loại gạo đặc sản, là sản phẩm phục vụ du lịch Quảng Ninh và cùng cả nước đưa hạt gạo Việt Nam khẳng định thương hiệu trên thế giới".

Trong cuộc đời công tác trên 35 năm, bà Trần Thị Hồng đã đạt được những thành tích đáng tự hào. Có thể kể tới như: 2 Bằng Lao động sáng tạo của Tổng LĐLĐ Việt Nam vào các năm 2010 và 2012; giải thưởng KOVA “Khoa học công nghệ ứng dụng đạt hiệu quả thiết thực phục vụ đời sống xã hội” năm 2012; Bằng khen của UBND tỉnh và nhiều giải thưởng tại hội thi sáng tạo kỹ thuật do các cấp tổ chức; được tôn vinh danh hiệu Trí thức khoa học và công nghệ tiêu biểu tỉnh Quảng Ninh năm 2020...và mới đây nhất, bà Trần thị Hồng vinh dự được đón nhận kỷ niệm chương Vì sự nghiệp khoa học và công nghệ.

Bên cạnh những thành công trong công tác chuyên môn, điều làm nữ kỹ sư Trần Thị Hồng trăn trở nhất là làm thế nào để thổi được ngọn lửa yêu nghề đối với những người kỹ sư nông nghiệp, những cán bộ, nhân viên trẻ trong Công ty hiện nay. Vì vậy, bà Hồng chưa bao giờ thôi cố gắng, nỗ lực, trở thành tấm gương sáng cho các đồng nghiệp về tinh thần làm việc nghiêm túc, say mê và tận tụy.  

Bài, ảnh: Hương Anh

 

Vân Đồn đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ phát triển sản phẩm OCOP

 

Thời gian qua, huyện Vân Đồn đã có nhiều giải pháp nhằm khuyến khích doanh nghiệp, Hợp tác xã, các chủ thể đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản phẩm OCOP, nhất là thông qua những cơ chế, chính sách hỗ trợ của tỉnh, của huyện về đầu tư, đổi mới công nghệ, xây dựng thương hiệu, quảng bá sản phẩm. Các hộ đã chú trọng đầu tư thiết bị máy móc hiện đại và áp dụng khoa học kỹ thuật từ khâu sản xuất đến chế biến đảm bảo chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm. Đến nay, huyện Vân Đồn đã có 53 sản phẩm OCOP, trong đó có 41 sản phẩm đạt 3 sao, 11 sản phẩm đạt 4 sao và 1 sản phẩm đạt 5 sao.

 

Vân Đồn được thiên nhiên ưu đãi, là nơi có biển cả và núi rừng giao thoa hoàn hảo và là một trong những vựa hải sản lớn nhất của tỉnh Quảng ninh. Để giúp giải quyết tốt hơn nguồn nguyên liệu tại chỗ, tạo ra những giá trị mới từ những sản phẩm thô sẵn có tại địa phương. Huyện Vân Đồn đã tuyên truyền, vận động, có chính sách khuyến khích, hỗ trợ các tổ chức, cá nhân tham gia chương trình OCOP. Tận dụng những lợi thế sẵn có của địa phương, nhiều doanh nghiệp, Hợp tác xã, cơ sở sản xuất trên địa bàn huyện đã đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, cải tiến công nghệ, quan tâm nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ. Nhiều sản phẩm đã được đưa lên các sàn thương mại điện tử, góp phần đẩy mạnh việc tiêu thụ, thúc đẩy quảng bá các sản phẩm OCOP của địa phương, tạo được lòng tin của người tiêu dùng.

 Công ty TNHH Hải sản Vân Đồn, chuyên sản xuất và chế biến các loại thuỷ hải sản sẵn có của địa phương. Sau gần 4 năm đi vào hoạt động, với mục tiêu hướng sân xuất nhiều sản phẩm chất lượng cao, xây dựng thương hiệu, Công ty đã lựa chọn các loài hải sản tươi ngon là đặc sản của địa phương như sá sùng, cá, tôm, mực, hàu sữa… Đưa ứng dụng khoa học và công nghệ tiên tiến để thay thế thiết bị thủ công truyền thống vào phục vụ sản xuất như: Máy sấy, máy xay, chảo điện sao ruốc… để chế biến ra nhiều món ăn tiện lợi, giàu dinh dưỡng. Qua đó, ngày càng nâng cao năng suất, chất lượng, đa dạng hóa sản phẩm, tạo nên thương hiệu cho các sản phẩm của Công ty. Năm 2023, Công ty TNHH Hải sản Vân Đồn có 2 sản phẩm là ruốc hàu Vân Đồn và ruốc tôm Vân Đồn được công nhận OCOP 4 sao cấp tỉnh.

Sản phẩm ruốc hàu Vân Đồn và ruốc tôm Vân Đồn được công nhận OCOP 4 sao cấp tỉnh.

Chị Đỗ Thị Thuỳ, Giám đốc Công ty TNHH Hải sản Vân Đồn cho biết: Mỗi năm công ty tiêu thụ được khoảng gần 6 nghìn lọ ruốc hàu, ruốc tôm. Công ty đã gắn tem truy xuất nguồn gốc xuất xứ, nhanh chóng tiếp cận và kết nối tiêu thụ sản phẩm OCOP qua các kênh bán hàng hiện đại như: Hệ thống siêu thị, cửa hàng tiện lợi, sàn giao dịch thương mại điện tử... Giúp khách hàng tiếp cận dễ dàng hơn. Ngoài ra, Công ty còn tăng cường ứng dụng các giải pháp mới như livestream bán hàng, tham gia Hội chợ OCOP, kết nối cung - cầu trực tuyến, giúp phổ cập nhanh thông tin về sản phẩm đến người tiêu dùng. Nhờ đó, các sản phẩm làm ra đến đâu tiêu thụ hết đến đó. Đây chính là điều kiện thuận lợi để Công ty tiếp tục đầu tư để mở rộng sản xuất đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng.

 Xã Vạn Yên, huyện Vân Đồn vốn được biết tới là vùng trồng cam lớn nhất của huyện Vân Đồn. Được thiên nhiên ưu đãi, nơi đây sở hữu không khí trong lành, mát mẻ cùng điều kiện thổ nhưỡng lý tưởng cho sự phát triển của cây cam. Những năm qua, để đảm bảo chất lượng, đồng thời xây dựng thương hiệu cho sản phẩm cam Vạn Yên, các hộ dân, các Hợp tác xã đã tiến hành trồng, chăm sóc cây cam theo tiêu chuẩn VietGAP, nguồn phân bón được sử dụng hoàn toàn là phân hữu cơ, hạn chế tối đa việc sử dụng thuốc trừ sâu. Đặc biệt, nguồn nước tưới cây được lấy từ các khe nước trong rừng sâu. Bởi vậy, cam Vạn Yên của huyện Vân Đồn nổi tiếng là một trong những loại nông sản tiêu biểu của tỉnh Quảng Ninh với vị thơm, ngon ngọt. Loại nông sản này ngày càng được thị trường tiêu dùng địa phương cũng như các vùng lân cận ưa chuộng.

 Bà Lê Thị Bảy, Giám đốc HTX Cam 10/10 chia sẻ: Đến nay, tôi đã gắn bó với nghề trồng cam gần 20 năm. Dựa vào cây cam, những người nông dân xã Vạn Yên đã xây được nhà, sắm được xe. Không chỉ mang lại nguồn kinh tế ổn định, cây cam còn giúp giải quyết việc làm cho nhiều lao động địa phương”. Đến nay, cam của HTX đã đạt chứng nhận OCOP 3 sao, trên mỗi sản phẩm đều được dán tem truy xuất nguồn gốc.

 Xác định cam Vạn Yên là một trong những cây trồng chủ lực của huyện Vân Đồn, mang lại hiệu quả kinh tế cao, giúp cho người dân từng bước xóa nghèo, vươn lên có của ăn, của để. Với mong muốn giữ lại giống cam bản địa, huyện Vân Đồn đã mời nhiều chuyên gia từ Viện Nghiên cứu rau quả Trung ương về chuyển giao kỹ thuật, hỗ trợ sản xuất cây giống bằng công nghệ ghép để có hệ số nhân giống cao hơn… Bên cạnh đó, huyện cũng mở nhiều lớp tập huấn kỹ thuật trồng, thu hoạch cam cho các hộ trồng cam. Các hộ đã mạnh dạn áp dụng nhiều phương pháp khoa học, kỹ thuật để chiết ghép, nhân giống mới như giống cam đường canh, giống V2 (Trước đây các hộ chủ yếu trồng giống cam bản địa là cam giấy, cam sen, cam đường, cam sành và quýt ngọt). Đến nay, toàn xã có hơn 100 hộ trồng cam, với tổng diện tích khoảng 200 ha, tập trung ở các thôn: Đài Chuối, Đài Làng, Cái Bầu và thôn 10/10. Mỗi năm cho thu hoạch trên 200 tấn cam. Với mức giá bán từ 35.000 - 50.000 đồng/ kg (tuỳ loại), thu nhập của mỗi hộ dân trồng cam có thể đạt vài trăm triệu đồng/ năm. Không chỉ dừng lại ở việc tiêu thụ nông sản địa phương, những người nông dân Vạn Yên còn mạnh dạn đầu tư, phát triển mô hình du lịch sinh thái tại ngay chính vườn cam của gia đình mình.

Có thể thấy, việc xây dựng sản phẩm OCOP không chỉ giúp huyện Vân Đồn giữ gìn, phát triển nghề truyền thống của địa phương, mà còn mở ra nhiều cơ hội lớn cho các doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, hộ gia đình, nâng cao năng suất, chất lượng và đa dạng hóa sản phẩm, tạo sức cạnh tranh cho các đặc sản, sản phẩm truyền thống của địa phương. Để tăng giá trị đầu ra cũng như tạo thương hiệu riêng của doanh nghiệp cho các sản phẩm OCOP, các doanh nghiệp cần tập trung theo hướng áp dụng khoa học và công nghệ, chế biến sâu, mở rộng các kênh phân phối, từ đó nâng tầm giá trị kinh tế cho sản phẩm OCOP, giải quyết đầu ra cho nông sản của địa phương, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của huyện. 

                                                                                          Bài, ảnh: Thanh Tùng

                                                            Trung tâm TT&VH huyện Vân Đồn

 

   

PHỔ BIẾN KIẾN THỨC

6 thực phẩm "vàng" chứa thuốc kháng sinh tự nhiên, nên ăn nhiều để ấm phổi, ngừa nhiễm trùng

 

Có nhiều thực phẩm được mệnh danh là thuốc kháng sinh tự nhiên, cực tốt cho sức khỏe trong việc ngăn ngừa các bệnh nhiễm trùng cũng như nâng cao hệ miễn dịch, bổ thận, ấm phổi,...

Thuốc kháng sinh là loại thuốc không còn xa lạ với nhiều người cần điều trị các nhiễm trùng do vi khuẩn và ức chế vi khuẩn, ngăn ngừa tái phát. Ngoài sử dụng thuốc thì có một số cách nâng cao sức khỏe như tập thể dục thường xuyên, có chế độ ăn lành mạnh, trong đó ưu tiên các thực phẩm chứa thuốc kháng sinh tự nhiên từ các loại gia vị, thảo mộc, rau củ,... thân thiện với miễn dịch và ngũ tạng.

Các thực phẩm là thuốc kháng sinh tự nhiên tốt cho sức khỏe

Theo Healthline, các thực phẩm kháng sinh tự nhiên mà bạn có thể dễ dàng tìm thấy trong bếp bao gồm:

Mật ong

Mật ong là một trong những loại thực phẩm chứa thuốc kháng sinh lâu đời nhất đã được chứng minh.

Tác dụng của mật ong là nhờ việc loại nước ngọt ngào này chứa hydro peroxit có thể giúp mật ong có đặc tính kháng khuẩn mạnh mẽ cùng hàm lượng đường cao, độ pH thấp (mật ong có độ pH từ 3,2 đến 4,5, thấp hơn mức pH mà hầu hết vi khuẩn phát triển) có tác dụng "kéo" độ ẩm ra khỏi vi khuẩn gây bệnh, thúc đẩy sự mất nước của chúng và loại bỏ chúng và thúc đẩy sự chữa lành của các mô cơ thể.

Mật ong là một trong những loại thực phẩm chứa thuốc kháng sinh lâu đời nhất đã được chứng minh (Ảnh: ST)

 Để sử dụng mật ong như một loại thuốc kháng sinh, bạn có thể bôi mật ong trực tiếp lên vết thương hoặc vùng bị nhiễm trùng do Staphylococcus aureus (S.aureus còn goin là vi khuẩn tụ cầu vàng), kháng methicillin và Enterococci kháng vancomycin. Hoặc uống nước pha mật ong để điều trị các bệnh nhiễm trùng đường hô hấp như cảm lạnh.

Lưu ý, không nên cho trẻ dưới 1 tuổi sử dụng mật ong. Nếu mua mật ong, thì nên chọn nơi có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng để chắc chắn đó là mật ong thật và học cách phân biệt với mật ong giả. Bảo quản mật ong cũng cần chú ý, vệ sinh lọ đựng sạch sẽ để mật ong không bị nhiễm khuẩn chéo.

Tỏi là kháng sinh tự nhiên phổ biến

Theo nhiều nghiên cứu, chiết xuất tỏi và các dẫn xuất của nó có hiệu quả chống lại các vi khuẩn phổ biến như Salmonella, Eshcerichia coli (E.coli) và Staphylococcus aureus nguyên nhân gây ra nhiều bệnh nhiễm trùng và cải thiện chức năng miễn dịch. Trong đó ăn tỏi có thể giúp ngăn ngừa cảm lạnh thông thường và cúm.

Điều này là nhờ tỏi có chứa thuốc kháng sinh tự nhiên là hợp chất có tính kháng khuẩn cao như: allicin, ajoene và allyl sulfide. Tác dụng của tỏi đối với sức khỏe còn nằm ở việc ngăn ngừa các lão hóa thần kinh, cải thiện sức khỏe của xương, hỗ trợ quản lý cân nặng, bảo vệ gan khỏi tổn thương do ethanol gây ra cũng như kiểm soát cholesterol và tăng cường sức khỏe tim mạch.

Lưu ý, tác dụng phụ của tỏi thường bao gồm chứng ợ nóng và đau dạ dày. Do vậy người đang có các bệnh lý về tiêu hóa nên thận trọng khi ăn tỏi.

Gừng

Ngoài các công dụng của gừng đối với sức khỏe đã được biết đến như giảm buồn nôn, giảm đau bụng kinh, giảm ho và đau họng thì gừng còn là một thực phẩm chứa thuốc kháng sinh tự nhiên giúp bảo vệ chống lại nhiều loại vi sinh vật như chống lại vi khuẩn gây bệnh nha chu, vi khuẩn E.coli và nhiễm trùng tụ cầu, theo một nghiên cứu năm 2020 trên tạp chí Phân tử.

Để sử dụng gừng, bạn có thể dễ dàng thêm vào các loại thực phẩm và đồ uống như trà, nước trái cây, kẹo và viên ngậm. Không cho trẻ em dưới 2 tuổi dùng gừng. Người lớn nên giới hạn gừng ở mức 4 gam mỗi ngày hoặc 1 gam nếu mang thai.

Đinh hương

Đinh hương có đặc tính kháng khuẩn - nghĩa là chúng có thể giúp ngăn chặn sự phát triển của vi sinh vật gây bệnh chẳng hạn như vi khuẩn E.coli gây ngộ độc thực phẩm hay những loại vi khuẩn gây bệnh viêm nướu từ đó giúp tăng cường sức khỏe răng miệng,... Một nghiên cứu năm 2023 trên NCBI cho thấy tinh dầu đinh hương có thể có tác dụng ức chế mạnh đối với vi khuẩn tụ cầu Staphylococcus gây nhiễm trùng da và đôi khi viêm phổi, viêm nội tâm mạc và viêm tủy xương.

Theo Y học cổ truyền, đinh hương còn được sử dụng để điều trị nhiều loại bệnh nhiễm trùng, bao gồm cả các nhiễm trùng đường hô hấp. Các nghiên cứu cho thấy đinh hương có tác dụng kháng nấm, kháng khuẩn và chống viêm, có thể hữu ích trong việc điều trị và ngăn ngừa một số bệnh nhiễm trùng. Chẳng hạn như dầu đinh hương, đã được chứng minh là có tác dụng kháng nấm và kháng khuẩn chống lại các mầm bệnh thường gây bệnh ở người, chẳng hạn như nấm men Candida và nấm Aspergillus.

Ngoài ra, eugenol, hợp chất hoạt động chính trong đinh hương, đã được chứng minh là có tác dụng ngăn chặn sự nhân lên của virus và làm giảm sự lây nhiễm virus của các virus herpes, chẳng hạn như herpes simplex-1 (HSV-1) và herpes simplex-2 (HSV-2) và cung cấp tác dụng kháng virus chống lại bệnh viêm gan A và cúm A, theo NIH.

Cây kinh giới

Y học cổ truyền cho biết, kinh giới có tính ấm, vị cay. Cây kinh giới được sử dụng trong nhiều bài thuốc dân gian với nhiều công dụng như hỗ trợ điều trị cảm mạo, sốt, cúm, nhức đầu, hoa mắt, phong thấp, đau xương, đau mình, viêm họng, nôn mửa, sởi, mẩn ngứa, mụn nhọt,... đặc biệt là tác dụng kháng vi khuẩn nổi trội hơn khi được chế biến thành dầu kinh giới.

Theo Very Well Health, tinh dầu kinh giới cay có tác dụng như một loại thuốc kháng sinh tự nhiên nhờ hợp chất carvacrol - có thể có hiệu quả trong việc chống lại một loại vi khuẩn gây sâu răng là Streptococcus mutans và chữa lành vết loét dạ dày cũng như giảm dấu hiệu viêm trong máu.

Tinh dầu kinh giới cay cũng được sử dụng như một liệu pháp giảm nhẹ triệu chứng viêm xoang khi khuếch tán trong không khí.

Cây diếp cá

Cây diếp cá có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, kháng khuẩn và tăng cường sức đề kháng cho cơ thể. Công dụng của rau diếp cá thường thấy nhất là trong trị mụn, chữa lành các vết thâm, kích thích tái tạo da nhờ tác dụng của các hợp chất chống oxy hóa mạnh mẽ như rutin, hyperin và quercetin cùng lượng lớn vitamin C và khoáng chất như magie, kali,... tốt cho hệ miễn dịch.

Tuy nhiên do rau diếp cá có tính hàn nên người bị lạnh bụng, tay chân lạnh không nên dùng. Bao nhiêu rau diếp cá mỗi ngày là đủ? Lượng rau diếp cá phù hợp để bổ sung mỗi ngày thích hợp nhất là từ 10 - 12 gam lá diếp cá khô để ủ trà uống, hoặc 20 - 40 gam lá diếp cá tươi ăn trực tiếp hay làm nước ép rau diếp cá.

Lưu ý gì khi sử dụng các thực phẩm là thuốc kháng sinh tự nhiên?

Tùy từng cơ địa mà việc sử dụng các loại gia vị và thực phẩm kể trên có thể có hiệu quả mạnh mẽ ở người này nhưng lại không có hiệu quả với người khác.

Thuốc kháng sinh tự nhiên từ thực phẩm không thể thay thế thuốc kê đơn của bác sĩ, không nên lạm dụng dùng ở liều lượng lớn với mong muốn nâng cao miễn dịch hay phòng ngừa nhiễm khuẩn.

Trên đây là 6 loại gia vị và thực phẩm là thuốc kháng sinh tự nhiên có thể dễ dàng mua ở chợ hay siêu thị với giá rẻ. Nếu có tiền sử dị ứng, tốt nhất hãy tránh dùng. Trước khi sử dụng bất kỳ một thực phẩm bổ sung nào, đặc biệt khi đang điều trị thuốc theo đơn, cần tham khảo ý kiến bác sĩ để tránh gây ra các tác dụng phụ không mong muốn đối với sức khỏe hoặc giảm hiệu quả của thuốc điều trị.

Theo phunuvietnam.vn

 

 

5 món nên tránh ăn uống khi bụng đói

 

Các chuyên gia khuyên không nên uống cà phê hay trái cây họ cam quýt, đồ uống có ga, ăn sữa chua, thực phẩm có đường khi bụng đói vì có thể gây vấn đề về tiêu hóa.

Khi cơn đói đến, bạn có thể muốn ăn ngay thứ đầu tiên nhìn thấy. Tuy nhiên, một số thực phẩm và đồ uống có hại nhiều hơn lợi đối với dạ dày trống rỗng.

Dưới đây là những thực phẩm có thể gây rối loạn tiêu hóa khi bụng đói, đặc biệt khi đường tiêu hóa nhạy cảm.

Cà phê

Nên tránh uống cà phê ngay sau khi thức dậy. Cà phê, đặc biệt là cà phê đen đậm đặc, có thể gây khó chịu cho dạ dày trống rỗng vì caffeine thúc đẩy giải phóng gastrin - hormone tiết axit dạ dày. Tác dụng này có thể dẫn đến các triệu chứng trào ngược, chẳng hạn như đầy hơi, buồn nôn và nôn.

Chuyên gia khuyên nên ăn một bữa ăn nhẹ giàu protein hoặc chất béo trước khi uống cà phê. Các thực phẩm như trứng luộc, một vài thìa bơ hạt, hoặc thậm chí cho một chút sữa dừa nguyên chất vào cà phê sẽ giúp dạ dày dễ chịu đựng cà phê hơn và giảm tác dụng phụ.

Trái cây họ cam quýt

Nước ép bưởi hoặc cam tươi thường được dùng vào bữa sáng, nhưng bạn nên tránh những thức uống này khi bụng đói nếu có tiền sử các vấn đề về tiêu hóa hoặc dạ dày quá nhạy cảm.

Trái cây họ cam quýt như ổi và cam có thể làm tăng sản xuất axit trong ruột, từ đó tăng nguy cơ viêm và loét dạ dày. Một lượng lớn chất xơ và fructose trong các loại trái cây này có thể làm chậm hệ tiêu hóa nếu ăn khi bụng đói.

Có thể áp dụng mẹo dùng trái cây họ cam quýt và đồ uống cùng với carbohydrate, để carbohydrate giúp hấp thụ axit dư thừa trong dạ dày, giảm các triệu chứng khó chịu.

Sữa chua

Nhờ hàm lượng probiotic và axit lactic cao, sữa chua rất tốt cho đường ruột. Tuy nhiên, tiêu thụ sản phẩm sữa lên men như sữa chua khi bụng đói làm cho vi khuẩn axit lactic có trong sữa chua không hiệu quả do nồng độ axit cao trong dạ dày.

Hơn nữa, ăn sữa chua khi bụng đói có thể làm tăng sản xuất axit dạ dày, gây khó chịu đường tiêu hóa, đồng thời phá hủy một số probiotic có lợi trong chính sữa chua.

Các bác sĩ khuyên nên ăn sữa chua khi no, để axit lactic được hấp thụ và không phá hủy một số thành phần có lợi đó.

Đồ uống có ga

Đồ uống có ga gây khó chịu đường tiêu hóa như ợ hơi và đầy hơi, đặc biệt là khi không có thức ăn trong dạ dày. Bong bóng carbon dioxide từ đồ uống có thể tạo ra nhiều áp lực trong dạ dày, gây khó chịu và ợ hơi, đồng thời cũng có thể dẫn đến trào ngược.

Cũng như thực phẩm có đường, uống đồ uống có ga chứa đường khi bụng đói có thể làm tăng nhanh lượng đường trong máu, có khả năng dẫn đến sụt giảm năng lượng.

Thực phẩm có đường, cay và nhiều dầu mỡ

Ăn thực phẩm có đường khi bụng đói có thể dẫn đến sự tăng đột biến nhanh hơn về insulin và lượng đường trong máu. Để ngăn chặn điều này, hãy ăn thực phẩm giàu chất xơ trước. Chất xơ làm chậm quá trình hấp thụ đường, do đó hỗ trợ lượng đường trong máu tăng chậm hơn. Ngoài ra, thực phẩm có đường cũng có thể gây tiêu chảy nếu ăn khi bụng đói. Điều này xảy ra khi chất điện giải và chất lỏng bị kéo ra khỏi máu và vào ruột, đây là nỗ lực của đường tiêu hóa để cân bằng nồng độ đường cao. Kết quả là đại tiện lỏng và nhiều nước, có thể rất khó chịu.

Hầu hết thực phẩm cay đều có một chất hóa học gọi là capsaicin liên kết với các thụ thể trong đường tiêu hóa, khiến cơ thể nghĩ rằng có thứ gì đó có hại đã xâm nhập vào đường tiêu hóa, khiến nó tăng sản xuất chất nhầy và tăng tốc độ tiêu hóa để loại bỏ chất này. Điều này có thể kích hoạt các cơn tiêu hóa quá mức, cùng với đau bụng, phân lỏng.

Hàm lượng chất béo cao của thực phẩm chiên nhiều dầu mỡ như khoai tây chiên, hành tây chiên, gà rán, có thể là quá nhiều cho dạ dày trống rỗng. Thực phẩm giàu chất béo mất nhiều thời gian hơn để tiêu hóa, gây ra sản xuất axit nhiều hơn, dẫn đến đau dạ dày, khó chịu và rối loạn đường tiêu hóa nói chung. Thực phẩm giàu chất béo cũng làm giảm khả năng co bóp của cơ thắt thực quản, tạo ra khoảng trống dẫn đến trào ngược axit.

Theo vnexpress.net

 

 

 

TIN HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

 

Phê duyệt Chương trình khoa học và công nghệ cấp quốc gia giai đoạn đến năm 2030

 

Vừa qua, Bộ KH&CN đã ban hành Quyết định số 2779/QĐ-BKHCN ngày 29/10/2024 phê duyệt Chương trình khoa học và công nghệ cấp quốc gia giai đoạn đến năm 2030 “Nghiên cứu khoa học và công nghệ phục vu mục tiêu đạt mức phát thải bằng 0 tại Việt Nam”, mã số KC.16/24-30.

Theo đó, mục tiêu là cung cấp luận cứ, cơ sở khoa học và thực tiễn đề xuất hoàn thiện cơ chế, chính sách, tiêu chuẩn, giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước liên quan với mục tiêu đạt mức phát thải bằng 0 tại Việt Nam; cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn, đề xuất các mô hình và các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội xanh, tuần hoàn, phát thải các-bon thấp, phát triển nguồn nhân lực nhằm mục tiêu đạt mức phát thải ròng bằng 0 tại Việt Nam; nghiên cứu, ứng dụng, giải mã, đổi mới và chuyển giao công nghệ, các giải pháp quản lý và kỹ thuật, khoa học công nghệ tiên tiến trong các ngành, lĩnh vực phục vụ giảm phát thải khí nhà kính; …

Chương trình được phê duyệt với 8 nội dung trọng tâm, trong đó có nội dung: Nghiên cứu để hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp luật phục vụ mục tiêu đạt mức phát thải ròng bằng 0 tại Việt Nam; Nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn thiết kế, xây dựng, thử nghiệm các mô hình và đề xuất các giải pháp chuyển dịch xã hội, tăng trưởng xanh, chuyển đổi xanh, kinh tế tuần hoàn, phát thải các-bon thấp nhằm mục tiêu đạt mức phát thải ròng bằng 0 tại Việt Nam;…và các nội dung khác.

Hương Anh

 

 

Giải pháp của ngành KH&CN Quảng Ninh nhằm thúc đẩy phát triển nghề nuôi biển

 

Sáng ngày 27/11/2024, Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam đã tổ chức Chương trình Lễ ra mắt Chi hội Nuôi biển Vân Đồn tại Cụm công nghiệp Vân Đồn, xã Đoàn Kết, huyện Vân Đồn, Quảng Ninh. Đồng chí Nguyễn Mạnh Cường, Tỉnh uỷ viên, Giám đốc Sở KH&CN đã tham dự và phát biểu về giải pháp của ngành KH&CN Quảng Ninh nhằm thúc đẩy phát triển nghề nuôi biển.

 Quảng Ninh có nhiều lợi thế trở thành môt trong nhưng tỉnh có tiềm năng phát triển kinh tế thủy sản, trong đó có nuôi biển. Để biến tiềm năng thành kết quả cụ thể, nhiều văn bản của Trung ương, của Chính phủ về phát triển nuôi biển đã được ban hành tạo hành lang pháp lý để tỉnh triển khai.  Quy hoạch tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2021-2030 tầm nhìn 2045 xác định: “Phát triển thuỷ sản là ngành kinh tế mũi nhọn trên cơ sở phát huy lợi thế biển đảo; hoàn chỉnh hệ thống hậu cần nghề cá, nuôi biển chế biến đồng bộ, hiện đại, xây dựng Quảng Ninh trở thành Trung tâm thuỷ sản của miền Bắc”.

Tuy nhiên, bên cạnh tiềm năng lợi thế, kinh tế thủy sản nói chung, nghề nuôi biển nói riêng đang phải đối diện với rất nhiều khó khăn, thách thức như: hạ tầng, tiềm lực suy giảm do ảnh hưởng của bão yagi (gần như xóa sổ nghệ nuôi biển Quảng Ninh; chính sách hỗ trợ phát triển thủy sản nói chung, nuôi biển nói riêng rất hạn chế, chỉ có Nghị định 67/2014/NĐ-CP và Nghị định số 17/2018/NĐ-CP của Chính phủ nhưng không có hỗ trợ nuôi biển; lao động thiếu hụt, giai đoạn 2018-2023 giảm đến 29,8%; số lượng giống thả nuôi là 8.055 triệu con giống các loại, trong đó số giống sản xuất, ương dưỡng tại chỗ 3.010 triệu con giống, đáp ứng 37,4% nhu cầu giống trên địa bàn tỉnh; một số vấn đề hạn chế trong kỹ thuật nuôi dẫn đến năng suất còn thấp, đối tượng nuôi chưa đa dạng, lồng bè chủ yếu bằng gỗ, tre, nứa và phao xốp, qui mô nhỏ, thiếu quy hoạch chi tiết các vùng biển.

Việc thành lập Chi hội Nuôi biển Vân Đồn là hết sức cần thiết, nhằm tổ chức thực hiện khắc phục những những khó khăn và phát huy tiềm năng lợi thế nghề nuôi biển Vân Đồn.

Phát biểu tại Lễ ra mắt Chi hội Nuôi biển Vân Đồn, đồng chí Nguyễn Mạnh Cường, Tỉnh uỷ viên, Giám đốc Sở KH&CN nhấn mạnh vào những giải pháp thúc đẩy phát triển nghề nuôi biển nhằm tháo gỡ những khó khăn nêu trên. Cụ thể: Ngành Khoa học và Công nghệ tiếp tục chủ động phối với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Tài nguyên và Môi trường tham mưu triển khai các nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh: “Đánh giá, phân vùng chức năng phục vụ phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường biển phát triển kinh tế biển tỉnh Quảng Ninh”, nhiệm vụ đề xuất triển khai các mô hình kinh tế thủy sản bền vững, đa lợi ích gắn với bảo vệ môi trường biển và hải đảo, ứng phó biến đổi khí hậu theo các tiểu vùng chức năng phát triển kinh tế biển tại tỉnh Quảng Ninh; “Nghiên cứu thiết kế, chế tạo hệ thống nuôi thuỷ sản trên biển tại tỉnh Quảng Ninh” giúp sớm triển khai giải pháp và mô hình nuôi biển phù hợp với điều kiện của Quảng Ninh.

Đồng thời, phối hợp đề xuất cơ chế chính sách đủ mạnh khuyến khích phát triển kinh tế thủy sản, trong đó có hỗ trợ hạ tầng nuôi biển, các cơ sở sản xuất giống để chủ động nguồn giống thiếu hụt (thiếu gần 70%); đào tạo nhân lực trong sản xuất giống, nuôi biển. Tiếp tục rà soát, định hướng không gian phù hợp để tập trung thu hút, khuyến khích các nhà đầu tư là doanh nghiệp mạnh phát triển nuôi biển bằng công nghệ hiện đại (đầu tư nuôi biển đòi hỏi đầu tư lớn).

Nghiên cứu hoàn thiện, chuyển giao quy trình kỹ thuật, công nghệ sản xuất giống nhân tạo và nuôi thương phẩm, thả một số loài thủy sản có giá trị kinh tế, loài thủy sản bản địa, đặc hữu, loài nguy cấp, quý, hiếm, bổ sung nguồn giống nhằm tái tạo và phát triển nguồn lợi thủy sản, phục hồi hệ sinh thái thủy sinh.

Tăng cường hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế giới về đào tạo phát triển nguồn nhân lực[1]; thúc đẩy hoạt động hợp tác quốc tế, tích cực trao đổi thông tin, kinh nghiệm và thu hút nguồn lực về nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, sở hữu trí tuệ; ưu tiên liên kết hợp tác nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng KHCN với các tỉnh Quảng Tây, Quảng Đông - Trung Quốc các đối tượng được thương mại hóa theo nhu cầu thị trường. Khuyến khích hợp tác với các tổ chức quốc tế nhằm tìm kiếm nguồn vốn hỗ trợ như: ODA; FDI; FAO; WWF; UNDP... cho phát triển bền vững kinh tế thủy sản của tỉnh.

Xây dựng thương hiệu “Thuỷ sản Quảng Ninh xanh, chất lượng cao”. Ưu tiên xây dựng bộ nhận diện thương hiệu thuỷ sản với 05 nhóm sản phẩm chủ lực có giá trị gia tăng cao, công nghệ tiên tiến, thân thiện môi trường, là lợi thế của tỉnh như: Hàu biển và các sản phẩm từ hàu; tôm thẻ và các sản phẩm từ tôm; cá biển (song, giò, vược, chim); mực và các sản phẩm từ mực; sản phẩm đặc hữu, bản địa như Sá sùng, bào ngư, hải sâm… gắn với chuyển đổi số và văn hóa địa phương.

Nhân dịp này, đồng chí Nguyễn Mạnh Cường, Tỉnh uỷ viên, Giám đốc Sở KH&CN cũng đã tặng hoa chúc mừng Chi hội Nuôi biển Vân Đồn.

Hương Anh

 

 

.


Tìm kiếm theo chuyên mục - nội dung - ngày tháng

Tin Nóng
Tin tiêu điểm

Lịch công tác trống

Website liên kết
Thống kê truy cập
Hôm nay: 233
Đã truy cập: 2476922