Từ những sản phẩm truyền thống, các nghệ nhân và doanh nghiệp đã không ngừng tìm tòi, đổi mới mẫu mã, kết hợp giữa kỹ thuật thủ công tinh xảo với công nghệ hiện đại thổi vào từng đường nét, màu men, để gốm sứ không chỉ là vật dụng thường ngày mà còn trở thành sứ giả văn hóa. Trên con đường vươn ra thị trường quốc tế, gốm sứ Quảng Ninh chuyển tải những câu chuyện của sự sáng tạo, kiên trì và khát vọng hội nhập.

Nghệ nhân Ưu tú Lê Trọng Mỹ kèm cặp một thợ gốm trẻ tuổi.
Gốm nặng lửa màu đỏ bã trầu
Trong lòng đất Quảng Ninh có nguồn tài nguyên đặc biệt dồi dào không kém là đất sét chịu lửa (còn gọi là đất sét nặng lửa). Đây là loại đất có tính chất chịu nhiệt độ rất cao, thường trên 1.600°C, được coi là nguyên liệu quý để sản xuất gốm sứ nặng lửa. Với trữ lượng lớn ở các vùng Móng Cái, Đông Triều, Uông Bí, Hoành Bồ cũ, đất sét nặng lửa Quảng Ninh từ lâu đã trở thành nền tảng cho sự hình thành của một dòng gốm đặc sắc.
Khác với gốm sứ thông thường, gốm sứ nặng lửa có khả năng chịu được nhiệt độ cao, độ bền cơ học và hóa học lớn. Sản phẩm thường có màu trắng ngà, kết cấu chắc, khó nứt vỡ. Nhờ vậy, chúng không chỉ được dùng trong sinh hoạt mà còn phục vụ nhiều ngành công nghiệp, từ luyện kim, xi măng, hóa chất đến điện tử, quốc phòng.
Dòng gốm nặng lửa Quảng Ninh phát triển đầu tiên là ở Móng Cái. Trong thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, Móng Cái đã trở thành một trung tâm gốm sứ Việt Nam. Gốm sứ nặng lửa ở Móng Cái đã lên ngôi và khẳng định được vị thế của mình trong suốt thời gian dài. Nhưng sau đó, trung tâm sản xuất gốm sứ nặng lửa chuyển về Quảng Yên rồi Đông Triều, trên cơ sở sự chuyển giao kỹ thuật của gốm sứ Móng Cái và tận dụng nguồn đất sét phong phú.
Nguồn đất sét ấy không chỉ để làm đồ gốm mỹ nghệ, trang trí vật dụng sinh hoạt mà còn rất thích hợp cho gốm xây dựng. Anh hùng Lao động Nguyễn Quang Mâu, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Gốm Đất Việt, cho biết: Đất sét nơi đây có hàm lượng oxit sắt cao, cho ra màu đỏ bã trầu độc đáo. Đây là thứ màu sắc rất được thị trường ưa chuộng.
Lịch sử cũng đã chọn vùng đất Quảng Ninh xưa là con đường đưa gốm sứ Việt ra thế giới. Những mảnh gốm mà các chuyên gia khảo cổ tìm thấy được ở Thương cảng Vân Đồn đã nói lên rằng nơi đây từng tập trung nhiều thuyền buôn từ các nước trong khu vực đến buôn bán, trao đổi hàng hóa. Cùng với hệ thống cảng biển, Thương cảng Vân Đồn còn có sự kết nối chặt chẽ với các bến, cảng đảo ven bờ, các vùng cửa sông với vùng Vạn Ninh, Móng Cái, Quảng Yên, Cát Bà và các làng nghề truyền thống, trong đó có các làng nghề gốm sứ.
Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Kim, Phó Chủ tịch Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia, cho rằng Thương cảng Vân Đồn còn có sự kết nối chặt chẽ với các bến, cảng đảo ven bờ và các làng nghề truyền thống như: Nghề đóng thuyền, nghề dệt, chế tác gốm sứ, ngọc trai, làm nón, chế biến thủy hải sản cùng nhiều ngành, nghề thủ công khác trải dọc vùng duyên hải và tập trung ở đồng bằng châu thổ sông Hồng.

Nghệ nhân vẽ hoa văn lên gốm mộc tại HTX Gốm sứ Đông Thành.
Đau đáu nỗi niềm khát vọng
Trong bức tranh gốm Quảng Ninh, không thể thiếu dấu ấn Nghệ nhân Ưu tú Lê Trọng Mỹ, nguyên Phó Chủ nhiệm HTX Gốm sứ Đông Thành, toạ lạc tại phường Đông Triều. Suốt hơn nửa thế kỷ làm nghề, ông không giữ riêng bí quyết mà sẵn sàng truyền dạy cho hơn 120 xã viên, phối hợp với Đại học Mỹ thuật Công nghiệp Hà Nội đào tạo lớp trung cấp nghề gốm sứ, sản xuất gốm xuất khẩu.
Ông Mỹ từng đi nhiều nơi trong nước để học hỏi thêm về kỹ thuật chế tác gốm. Chính ông là người đề xuất cải tiến lò nung than thay củi, một sáng kiến quan trọng giúp gốm Việt từng bước bắt kịp tiêu chuẩn quốc tế. Với ông, “giữ nghề” không chỉ là giữ một kế sinh nhai, mà còn là giữ linh hồn văn hóa. Học trò của ông, nhiều người đã trở thành nghệ nhân, kỹ sư, tiếp nối ngọn lửa nghề qua các thế hệ.
Nghệ nhân Lê Trọng Mỹ đến nay đã gần 90 tuổi nhưng vẫn đau đáu một niềm khao khát đưa gốm sứ Quảng Ninh vượt đại dương đến với những thị trường thế giới. Gốm Đông Triều đẹp, nguồn nguyên liệu phong phú, thợ lành nghề nhiều, giá cả lại cạnh tranh vậy mà có nhiều khi lại thua đầy tức tưởi ngay trên "sân nhà".
Ông Mỹ chạnh buồn khi những cửa hàng quanh nhà mình và thậm chí là cả của con cái mình bày bán cả gốm sứ nơi khác lẫn với hàng địa phương, thậm chí cả gốm sứ Trung Quốc. Khách hàng thì không phân biệt được, nhiều người lại không lựa chọn gốm sứ Đông Triều. Ông Mỹ chống cằm suy nghĩ trăn trở nhiều lắm nhưng tuổi cao sức yếu rồi đành lực bất tòng tâm.
Dấu ấn Quảng Ninh trên bản đồ gốm sứ thế giới
Cái khát vọng đau đáu cả đời của ông Mỹ đã được những người trẻ hơn hiện thực hoá. Một trong số đó là bà Hà Thị Vinh, Chủ tịch HĐQT Công ty TNHH Gốm sứ Quang Vinh, chi nhánh tại phường Mạo Khê. Mỗi khi nhắc đến gốm, đôi mắt bà ánh lên như có lửa.

Gốm sứ Quang Vinh tham gia một hội chợ quốc tế.
Con đường đến với xuất khẩu của bà Hà Thị Vinh bắt đầu bằng một cơ duyên. Năm 1989, tại một hội chợ, bà gặp một doanh nhân Italia. Hợp đồng đầu tiên được ký trị giá 30.000 USD cho việc sản xuất những chiếc gạt tàn, giày gốm in biểu tượng bóng đá Italia đã đưa gốm Việt vượt biên giới. Niềm vui ấy thắp thêm niềm tin rằng từ đây gốm Việt có thể đứng ngang hàng với bạn bè quốc tế.
Nhưng xuất khẩu nhanh chóng bị ngắt quãng. Những lò bầu nung gốm bằng than, hoặc củi ngày đêm đỏ lửa lại trở thành rào cản khi tiêu chuẩn môi trường toàn cầu ngày càng khắt khe. Sản phẩm bị chặn ngay tại cửa khẩu chỉ vì… khói bụi. Đó là lúc bà Vinh hiểu rằng để đi xa, phải thay đổi từ gốc rễ.
Thập niên 90, “lò gas hóa lỏng” là khái niệm xa lạ. Vốn liếng không có, công nghệ chưa ai dám thử, nhưng bà Vinh đã đánh cược cả tương lai. Bà tìm đến đối tác Đài Loan, chấp nhận vay vốn, học kỹ thuật, rồi lắp đặt chiếc lò gas đầu tiên. Khi ngọn lửa xanh bùng lên, khói bụi dần tan biến. Chỉ sau nửa năm, hàng trăm lò gas nhỏ mọc lên khắp làng nghề. Công nghệ mới giúp sản phẩm đồng đều, tinh xảo, mở toang cánh cửa đến những thị trường khó tính như Mỹ, Nhật Bản, châu Âu.
Đỉnh điểm, trong một hội chợ ở Dallas (Mỹ), sản phẩm của Quang Vinh được bán hết sạch chỉ trong vài giờ. Nhưng bà Vinh không ngủ quên trên chiến thắng. “Thế giới thay đổi từng ngày. Nếu mình không thay đổi, sẽ tụt lại phía sau”, bà tâm sự. Với bà, gốm không chỉ là hàng hóa mà còn là “sứ giả văn hóa” kể câu chuyện về đất và người Việt.
Trong ký ức làng nghề, bà Vinh còn được gọi là “người đàn bà của những chuyến đi”. Khi khủng hoảng tài chính Châu Á 1997–1998 quét qua, thương lái ép giá, nhiều hộ gốm đứng bên bờ phá sản, bà đã bay sang Hàn Quốc, Đài Loan, lắng nghe từng đối tác. Trở về, bà mạnh dạn vay ngân hàng, mua lại hàng tồn, yêu cầu cả làng tạm ngừng sản xuất. Quyết định ấy đã cứu sống cả một cộng đồng, trả lại niềm tin cho những người thợ chỉ quen cúi đầu bên bàn xoay.
Không dừng ở việc “giải cứu”, bà còn ấp ủ giấc mơ phục dựng làng nghề ở Vân Đồn, thương cảng cổ từng sầm uất thời Lý - Trần. Với bà, đưa gốm sứ ra thế giới không chỉ là câu chuyện kinh tế, mà còn là đi lại con đường gốm sứ cha ông đã đi, đi tiếp hành trình tri ân cha ông, khẳng định bản sắc văn hóa Việt Nam trên trường quốc tế.
Nếu bà Hà Thị Vinh đại diện cho tinh thần tiên phong, thì ông Nguyễn Quang Mâu lại là người biết tận dụng “mỏ vàng” từ lòng đất Quảng Ninh để sản xuất gốm xây dựng. Năm 2009, ông về Đông Triều khảo sát, thấy ruộng đồng bấp bênh ở xã Tràng An (nay là phường Bình Khê) nhưng dưới đó là nguồn đất sét quý. Ông nghĩ: “Tại sao không biến thứ đất này thành giá trị?”. Thế là Công ty Gốm Đất Việt ra đời. Chỉ sau một năm, mẻ hàng đầu tiên xuất xưởng, rồi từ chỗ vô danh, đến nay Gốm Đất Việt từ 1 công ty đã có thêm 2 công ty nữa và doanh nghiệp đã trở thành điểm sáng của ngành gạch ngói đất sét nung Việt Nam. Gốm Đất Việt không chỉ sản xuất cho tiêu dùng trong nước mà đã xuất khẩu đến 56 quốc gia và vùng lãnh thổ. Doanh nghiệp còn giành 39 kỷ lục quốc gia, 6 kỷ lục quốc tế và đặc biệt là Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học - công nghệ. Ông Mâu tâm niệm: “Xưa, đất sét tạo nên những mái nhà bên sông Cầm. Nay, chính loại đất ấy đưa tên tuổi Việt Nam ra khắp năm châu".

Bốc dỡ lô hàng Gốm Đất Việt xuất khẩu sang Houston, Mỹ.
Từ ngọn lửa lò bầu truyền thống của ông Lê Trọng Mỹ đến lò gas đầu tiên của bà Hà Thị Vinh, lò tuynel của ông Nguyễn Quang Mâu, gốm sứ Quảng Ninh đã vượt qua bao thăng trầm để có chỗ đứng vững vàng. Hôm nay, sản phẩm Quảng Ninh không chỉ hiện diện trong căn bếp, phòng khách của người Việt, mà còn xuất hiện trong siêu thị Mỹ, cửa hàng Nhật, công trình châu Âu. Đó là niềm tự hào của một vùng đất vốn chỉ được nhiều người biết đến với than đá mà quên đi nguồn tài nguyên đất sét cũng quá đỗi dồi dào.
Hành trình đưa gốm sứ Quảng Ninh ra thế giới là hành trình của đổi mới và kiên định. Đó là bước chân không ngại gian khó của bà Hà Thị Vinh, là tầm nhìn của ông Nguyễn Quang Mâu, là tấm lòng truyền nghề của Nghệ nhân Ưu tú Lê Trọng Mỹ. Câu chuyện của gốm sứ tưởng chỉ loanh quanh là chuyện của đất, nước và lửa nhưng thực chất là sự kết tinh của khát vọng, trí tuệ và bản lĩnh con người. Và khi những sản phẩm ấy vượt biển khơi, nó mang theo câu chuyện về vùng đất Quảng Ninh, về sự sáng tạo bất tận của con người. Và để rồi mỗi khi nâng trên tay một chiếc bình gốm, một viên gạch men, một hòn ngói đỏ, bạn bè quốc tế đều thấy cả một lịch sử, một nền văn hóa sống động đang hiện hữu.