Đến nay, có 2/7 nhà máy (Nhà máy nhiệt điện Thăng Long, Nhà máy nhiệt điện Uông Bí) đã hoàn thành lắp đặt đầy đủ các thông số quan trắc tự động liên tục theo quy định; còn lại 5/7 nhà máy đã có văn bản cam kết hoàn thành lắp đặt đầy đủ các thông số quan trắc tự động trước ngày 31/12/2024 theo quy định của Nghị định số 08/NĐ-CP ngày 10/1/2022 của Chính phủ.
Để giảm thiểu phát tán khói đen, các nhà máy nhiệt điện than đều có giải pháp cải tiến quy trình, bổ sung công nghệ để kiểm soát bụi, khí thải giảm thiểu ảnh hưởng tác động tới môi trường trong quá trình khởi động lò hơi. Một số nhà máy nhiệt điện (Đông Triều, Uông Bí, Thăng Long, Cẩm Phả, Mông Dương 1) trong quá trình khởi động lại lò hơi đã chuyển đổi từ sử dụng dầu FO sang dầu DO, đồng thời đưa hệ thống lọc bụi vào làm việc khi chuyển sang đốt than, do vậy luôn đảm bảo kiểm soát nồng độ bụi, khí thải theo quy chuẩn môi trường. Cùng với đó, đã áp dụng việc sử dụng một số loại than có nhiệt độ bắt cháy thấp trong quá trình khởi động lại lò hơi, vì vậy giảm thời gian phải đốt bằng dầu, tiết kiệm chi phí khởi động lại lò hơi.
Giám sát quá trình sản xuất, vận hành các lò đốt tại Nhà máy Nhiệt điện Mạo Khê (Công ty Nhiệt điện Đông Triều).
Ông Đỗ Trung Kiên, Giám đốc Công ty Nhiệt điện Uông Bí, cho biết: Định kỳ đơn vị thực hiện kiểm tra, bảo trì, bảo dưỡng các máy móc, thiết bị của nhà máy để giảm thiểu các sự cố phải dừng, khởi động lại lò hơi. Trong quá trình hoạt động của nhà máy, nếu có một thời điểm gián đoạn, mất dữ liệu truyền về Sở TN&MT thì đơn vị đều có văn bản báo cáo Sở TN&MT làm rõ nguyên nhân và phương án khắc phục kịp thời đối với lỗi gián đoạn đó.
Theo Sở TN&MT, trong quá trình vận hành hệ thống quan trắc môi trường tự động, các nhà máy nhiệt điện liên tục truyền số liệu về Sở TN&MT (đạt 90%). Tuy nhiên, trong quá trình vận hành liên tục 24/24 giờ trong môi trường nước thải, khí thải, nhiệt độ cao ảnh hưởng đến độ bền các vật liệu, thiết bị của hệ thống quan trắc, do đó, trong quá trình vận hành sẽ gặp một số sự cố dẫn đến một số thời điểm hệ thống ghi nhận giá trị các thông số bất thường (giá trị âm, giá trị bằng không). Khi phát hiện số liệu bất thường hay lỗi sự cố, Sở TN&MT đã có văn bản đôn đốc, yêu cầu các nhà máy trong quá trình hoạt động nếu xảy ra sự cố, lỗi thiết bị cần thực hiện khắc phục sự cố và có văn bản báo cáo về Sở TN&MT.
Đối với vấn đề bùn, tro, xỉ thải, các nhà máy nhiệt điện đã khắc phục những tồn tại, hạn chế được các cấp, ngành chỉ ra, trong đó đã rà soát, chỉnh sửa, cập nhật đề án xử lý, tiêu thụ tro, xỉ, thạch cao theo Quyết định số 2056/QĐ-BCT ngày 14/6/2018 của Bộ Công Thương; tăng cường phối hợp với các đơn vị có nhu cầu sử dụng tro, xỉ trên địa bàn tỉnh và các tỉnh lân cận để đẩy mạnh lượng tiêu thụ tro, xỉ nhằm giảm tải lượng tro, xỉ tồn đọng tại bãi chứa.
Theo đánh giá tổng thể, trước mắt các nhà máy nhiệt điện than trên địa bàn tỉnh vẫn đang đáp ứng được yêu cầu trong việc quản lý phát thải, bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, về lâu dài, các nhà máy nhiệt điện cần khẩn trương khắc phục những bất cập và có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ của ngành chức năng tỉnh. Trong đó, 5/7 nhà máy nhiệt điện (Quảng Ninh, Cẩm Phả, Đông Triều, Mông Dương 1, Mông Dương 2) từ nay đến 31/12/2024 phải hoàn thành việc lắp đặt đầy đủ các thông số quan trắc tự động; nghiên cứu phương án tiêu thụ tro, xỉ không để tồn vượt quá 2 năm sản xuất theo công suất thiết kế.