Hội thảo “Tư duy và hành động đột phá phát triển của tỉnh Quảng Ninh: Giá trị lý luận và thực tiễn”.
Dự hội thảo có các đồng chí: Bùi Thế Duy, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ; Cao Tường Huy, Quyền Chủ tịch UBND tỉnh; đại diện lãnh đạo một số ban, bộ, ngành Trung ương; các đồng chí trong BTV Tỉnh ủy Quảng Ninh, Thường trực HĐND, UBND tỉnh, các sở, ngành, địa phương trong tỉnh cùng các chuyên gia, nhà khoa học trong cả nước.
8h15: Phát biểu chào mừng hội thảo, đồng chí Nguyễn Xuân Ký, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh, nhấn mạnh:
Đồng chí Nguyễn Xuân Ký, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh, phát biểu chào mừng hội thảo.
Trải qua gần 60 năm xây dựng và phát triển tỉnh Quảng Ninh, trong hơn 37 năm thực hiện đường lối đổi mới, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước; sự phối hợp, giúp đỡ của các ban, bộ, ngành Trung ương, Đảng bộ, chính quyền, nhân dân các dân tộc trong tỉnh không ngừng nỗ lực, đoàn kết, chủ động, sáng tạo, đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhiều mặt nổi bật, mang tính tiên phong và đột phá, đưa Quảng Ninh từ một tỉnh còn yếu kém phải dựa vào hỗ trợ của Trung ương “vươn lên trở thành một trong những tỉnh đi đầu trong công cuộc đổi mới sáng tạo của vùng đồng bằng Bắc Bộ, một cực tăng trưởng của khu vực phía Bắc” - như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đánh giá khi về thăm, làm việc năm 2022 - với đà tăng trưởng hai con số trong 8 năm liên tiếp (2016-2023), kể cả trong những giai đoạn khó khăn do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19; quy mô nền kinh tế tăng nhanh, năm 2022 đạt gần 270.000 tỷ đồng, gấp 103 lần so với năm 1986, ước hết năm 2023 đạt gần 312.420 tỷ đồng, gấp 1,5 lần năm 2020; tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn luôn đứng nhóm đầu của cả nước; là một trong 5 địa phương có tỷ lệ đô thị hóa cao nhất cả nước, đạt gần 70%.
Trong suốt hành trình đó, Quảng Ninh đã mạnh dạn tìm tòi và đi tiên phong thử nghiệm những cách làm mới chưa có tiền lệ đầy táo bạo, sáng tạo, mang tính đột phá, giúp tạo nên những kỳ tích phát triển; những thử nghiệm mới này đã cung cấp những luận cứ, luận chứng quan trọng để Trung ương có cơ sở khoa học, thực tiễn quyết sách những chủ trương, chính sách lớn cho sự phát triển chung của đất nước.
Nhiều vấn đề mà Quảng Ninh đã mạnh dạn kiến nghị Trung ương cho thí điểm áp dụng, sau đó được tổng kết nhân rộng, đưa Quảng Ninh trở thành một “địa chỉ đỏ” khởi nguồn của những chủ trương, chính sách mới, mang tính đột phá của cả nước; đóng góp quan trọng vào sự nghiệp đổi mới của toàn Đảng và đất nước. Nổi bật là những đóng góp vai trò, vị thế của một trung tâm công nghiệp khai khoáng và sản xuất nhiệt điện, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia với đội ngũ công nhân và phong trào công nhân sôi động. Đóng góp một mô hình tìm tòi và đột phá đưa công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu, hướng vào chất lượng phát triển, tạo đột phá trong chuyển đổi phương thức phát triển từ “nâu” sang “xanh”, đẩy nhanh tốc độ phát triển và hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng chiến lược đồng bộ, hiện đại chủ yếu bằng nguồn lực xã hội hóa dựa trên nguyên tắc “đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư”; đổi mới toàn diện và hướng vào chất lượng phát triển thúc đẩy hình thành một cơ cấu xã hội tiến bộ theo hướng giảm nhanh người nghèo, gia tăng tầng lớp trung lưu, phát triển cân đối hài hòa giữa nông thôn và đô thị gắn với xây dựng nông thôn mới, thúc đẩy đô thị hóa và phát triển đô thị thông minh, văn minh, hiện đại, không ngừng mở rộng phạm vi bao phủ và nâng cao chất lượng bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội; phát huy văn hóa, xã hội, môi trường là nguồn lực, động lực cho phát triển bền vững.
Đóng góp vào đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và thúc đẩy cải cách hành chính, nâng cao năng lực quản trị địa phương hiện đại, tự chủ, năng động, hiệu quả trước các thách thức an ninh phi truyền thống với những tình thế phức tạp chưa có trong tiền lệ, tính bất định cao đòi hỏi tốc độ phản ứng nhanh, linh hoạt, thích ứng, an toàn, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh, hoàn thành “mục tiêu kép”; vận dụng nhuần nhuyễn quan điểm, phương châm, nguyên tắc “làm đúng, làm nhanh, làm tốt”, “3 trước”, “4 tại chỗ”, “5 thật” (Nghĩ thật, nói thật, làm thật, hiệu quả thật, nhân dân và doanh nghiệp được thụ hưởng thật), “6 dám” (dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo và dám đương đầu với khó khăn thử thách), chủ động, tích cực, từ xa, từ sớm, từ cơ sở, xây dựng chính quyền phục vụ, thân thiện với người dân và doanh nghiệp, đổi mới cơ chế để khai thông các điểm nghẽn, huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm giải quyết các mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội.
Đóng góp vào sự nghiệp bảo vệ chủ quyền cả biên giới trên bộ và biển đảo vùng Đông Bắc của Tổ quốc ở một địa phương có đường biên giới trên bộ và trên biển với Trung Quốc, là cửa ngõ giao thương quan trọng và sôi động nhất của Việt Nam với ASEAN, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, phòng tuyến cạnh tranh và hợp tác kinh tế quốc tế trên cơ sở ngày càng tăng cường quốc phòng, an ninh theo phương châm từ sớm, từ xa, từ gốc, dựa trên sức mạnh tổng hợp gắn với xây dựng thế trận lòng dân, cả ứng phó với thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống. Đó là thành quả tổng hợp của nhiều nhân tố, gắn liền vai trò lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, sự giúp đỡ của Trung ương và phát huy tính chủ động, sáng tạo của địa phương, phát huy nguồn lực nội sinh và huy động sức mạnh từ hội nhập, hợp tác và kết nối, phản ánh ý chí tự lực, tự cường, sức sáng tạo vô bờ bến của các thế hệ cán bộ, đảng viên và nhân dân, phát huy trách nhiệm người đứng đầu…
Quá trình xây dựng, phát triển của tỉnh Quảng Ninh thời gian qua, từ thực tiễn thực thi các chủ trương, chính sách, tỉnh Quảng Ninh đúc kết được nhiều bài học quý báu, trong đó có nhiều bài học quan trọng, có ý nghĩa:
Một là, chủ động bám sát, nắm chắc, tiếp thu, cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Trung ương phù hợp với đặc điểm, tình hình cụ thể, lợi thế riêng có của tỉnh Quảng Ninh, thắt chặt sự phối hợp, giúp đỡ của các ban, bộ, ngành và các địa phương trên cả nước; phát huy có hiệu quả mọi tiềm năng, thế mạnh, huy động sức mạnh tổng hợp của tỉnh với phương châm nội lực là căn bản, ngoại lực là quan trọng; với nguyên tắc, quan điểm phát triển hài hòa giữa kinh tế với văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, đảm bảo vững chắc quốc phòng an ninh, cân bằng giữa các vùng, miền, bình đẳng giữa các khu vực, không ngừng nâng cao toàn diện chất lượng cuộc sống của nhân dân.
Hai là, không ngừng đổi mới tư duy, tầm nhìn phát triển, xác lập tầm nhìn chiến lược; chủ động, sáng tạo, bám sát thực tiễn, hành động theo quy luật khách quan và hợp với lòng dân; năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành ở tất cả các cấp, các ngành vì lợi ích chung; chọn đúng trọng tâm, khâu đột phá, nguồn lực để tập trung sự lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện dứt điểm, kịp thời.
Ba là, giữ vững đoàn kết, thống nhất, phát huy dân chủ, ý chí tự lực, tự cường, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân; tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, chính quyền với nhân dân; củng cố và nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Đảng, chính quyền; củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo sự đồng thuận xã hội theo đúng phương châm “dân là gốc”, “dân là chủ”, “dân làm chủ”; nhân dân vừa là trung tâm, chủ thể, vừa là nguồn lực, động lực và mục tiêu của sự phát triển, bảo đảm tính bền vững, hài hòa ngay trong từng bước phát triển.
Chặng đường 60 năm hình thành và phát triển và những thành tựu sau 37 năm thực hiện đường lối đổi mới của Quảng Ninh là dấu mốc quan trọng đối với địa phương cũng như đóng góp thêm góc nhìn cả ở góc độ lý luận và thực tiễn từ những đóng góp của Quảng Ninh với cả nước trong tiến trình thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo.
Tại hội thảo này, tỉnh Quảng Ninh mong muốn sẽ nhận được nhiều ý kiến phát biểu đóng góp tâm huyết, trách nhiệm, thẳng thắn, chỉ ra những hạn chế, yếu kém của các nhà khoa học, nhà quản lý, các chuyên gia và của quý vị đại biểu, khách quý để giúp Quảng Ninh có thêm nhận thức mới, nhất là trong quá trình xây dựng Quảng Ninh từ nay đến năm 2030 và 2045 để xây dựng Quảng Ninh kiểu mẫu, giàu đẹp, văn minh, hiện đại, nhân dân hạnh phúc và thực hiện mục tiêu đà phát triển đến năm 2030 đạt tăng trưởng kinh tế GRDP trên 10%.
8h30: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hà, Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản: "Quảng Ninh là tỉnh có nhiều tư duy và hành động đột phá"
PGS.TS Nguyễn Ngọc Hà, Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản, phát biểu đề dẫn hội thảo.
Phát biểu đề dẫn tại Hội thảo, PGS.TS Nguyễn Ngọc Hà nhấn mạnh: Trong thời gian qua, Quảng Ninh là tỉnh có nhiều tư duy và hành động đột phá. Tư duy và hành động đột phá phát triển ở Quảng Ninh đang diễn ra ngày càng sôi động, đi vào chiều sâu, nhiều vòng, nhiều lớp, lan toả ngày càng rộng trên các lĩnh vực và trở thành một dấu ấn cốt cách Quảng Ninh. Nghiên cứu một cách hệ thống về chủ đề này là công việc cần thiết, mang ý nghĩa lý luận sâu sắc và giá trị thực tiễn quý báu. Với Quảng Ninh, sẽ thêm tự tin, bản lĩnh và kinh nghiệm, đồng thời mạnh dạn chỉ ra những khoảng trống cần khoả lấp, những không gian mới cần chinh phục, để những thành quả đạt được ngày càng rõ sự toàn diện, vượt trội. Với giới lý luận, nghiên cứu khoa học, sẽ có thực tiễn vô cùng sống động, lớp lang, bài bản, kết quả thuyết phục để củng cố nhận thức lý luận. Với các đồng chí lãnh đạo, quản lý cơ quan Trung ương và địa phương, tư duy và hành động đột phá của Quảng Ninh sẽ gợi mở nhiều điều về kinh nghiệm, cách làm, về bản lĩnh và trách nhiệm.
Cuộc hội thảo hôm nay không xuất phát từ một sáng kiến của cơ quan tham mưu, mà thực ra đã được ấp ủ từ lâu trong ý tưởng của lãnh đạo Hội đồng Lý luận Trung ương, của tỉnh Quảng Ninh và Tạp chí Cộng sản. Nói sát hơn nữa, chính tư duy và hành động đột phá của Quảng Ninh đã thu hút sự quan tâm và đặt ra nhiều vấn đề cần nghiên cứu với chúng ta. Độ chín của những ấp ủ ấy tới cuộc hội thảo hôm nay và điểm hội tụ để tất cả chúng ta có mặt trong cuộc hội thảo này càng thêm giá trị vào thời điểm Đảng ta đã bắt đầu khởi động quá trình chuẩn bị dự thảo các văn kiện Đại hội XIV của Đảng, rất cần có thêm những điểm mới về lý luận và thực tiễn.
Tư duy và hành động đột phá phát triển của tỉnh Quảng Ninh gợi mở cho chúng ta rất nhiều vấn đề cả ở góc độ tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận và các bài tham luận đã làm rõ nhiều vấn đề. Tại hội thảo này, đề nghị các đồng chí tham luận tập trung vào những nội dung sau: Bối cảnh lịch sử, cơ hội và thách thức, xung lực và rào cản của những quyết sách đột phá ở Quảng Ninh; Nội dung và cách thức đột phá phát triển trong tư duy và hành động của Quảng Ninh; Đánh giá toàn diện, khách quan về những kết quả đạt được; chỉ ra những ngưỡng phát triển, những khoảng trống cần khoả lấp, những bất cập cần tháo gỡ, những thách thức phải đối mặt. Để chúng ta thêm tự tin và có thêm bản lĩnh.
Giá trị lý luận và thực tiễn từ tư duy và hành động đột phá phát triển của tỉnh Quảng Ninh đang đòi hỏi cuộc hội thảo phải có tính đột phá trong tổng kết thực tiễn ở tầm lý luận và làm rõ các vấn đề lý luận đang thấm đẫm hơi thở cuộc sống. Với tinh thần ấy, tôi tin tưởng chắc chắn rằng Hội thảo “Tư duy và hành động đột phá phát triển của tỉnh Quảng Ninh: Giá trị lý luận và thực tiễn” sẽ thành công tốt đẹp.
8h40: Đồng chí Cao Tường Huy, Quyền Chủ tịch UBND tỉnh: “Tư duy và hành động đột phá phát triển của tỉnh Quảng Ninh”
Đồng chí Cao Tường Huy, Quyền Chủ tịch UBND tỉnh, tham luận tại hội thảo.
Chia sẻ về tư duy đổi mới và những cách làm đột phá của tỉnh Quảng Ninh trong quá trình phát triển, đồng chí Quyền Chủ tịch UBND tỉnh nhấn mạnh:
Thứ nhất là tận dụng cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh của tỉnh Quảng Ninh, trong đó phát huy cao nhất những tiềm năng, thế mạnh về thiên tạo, nhân tạo nơi có Di sản - Kỳ quan thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long cùng những đặc sắc “có một, không hai” của Vịnh Bái Tử Long và mạng lưới di tích lịch sử - văn hóa, thương cảng Vân Đồn; có trữ lượng than lớn nhất Đông Nam Á, là nơi hình thành ngành công nghiệp đầu tiên và là cái nôi của giai cấp công nhân Việt Nam với truyền thống cách mạng “Kỷ luật và Đồng tâm”; có nhiều tiềm năng phát triển năng lượng tái tạo (điện gió, điện khí); xã hội, con người là nơi hội tụ, giao thoa, thống nhất trong đa dạng của nền văn minh sông Hồng; nơi duy nhất có nhà vua sau khi thắng giặc ngoại xâm từ bỏ ngai vàng lên núi hóa Phật, để lại Thiền phái Trúc lâm Yên Tử mang bản sắc riêng của Phật giáo Việt Nam với tư tưởng về hòa nhập đạo pháp với dân tộc và đoàn kết các tôn giáo, chứa đựng trong mình vũ khí tinh thần bất diệt. “Bản sắc, cốt cách Quảng Ninh khắc họa tính địa phương đậm nét, thể hiện ở nền văn hóa đặc sắc, con người hào sảng, thiên nhiên tươi đẹp”.
Thứ hai là xác lập trong giai đoạn dài hạn với những chiến lược cụ thể để có kế hoạch ngắn hạn. Tỉnh Quảng Ninh là tỉnh đầu tiên trên cả nước thuê đơn vị tư vấn nước ngoài lập 07 quy hoạch chiến lược đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Kế thừa thành quả của 07 quy hoạch chiến lược, tỉnh Quảng Ninh tiếp tục hoàn thành công tác lập Quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 và là tỉnh đầu tiên của Vùng đồng bằng sông Hồng được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch tỉnh tại Quyết định số 80/QĐ-TTg ngày 11/2/2023, cũng là địa phương đầu tiên trong cả nước được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch triển khai Quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 tại Quyết định số 1279/QĐ-TTg ngày 01/11/2023. Đồng thời, xây dựng quy hoạch vùng, quy hoạch ngành, quy hoạch địa phương.
Thứ ba là tập trung đổi mới các điểm nghẽn nhất là trong công tác đầu tư, thu hút đầu tư ngoài ngân sách; kiên trì thực hiện quan điểm phát triển “dựa vào nguồn lực bên trong là quyết định, chiến lược, cơ bản lâu dài và nguồn lực bên ngoài là quan trọng, đột phá”, vận dụng sáng tạo đầu tư theo phương thức đối tác công - tư (PPP) để huy động nguồn lực phát triển hạ tầng đồng bộ, hiện đại, xác định việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại.
Thứ tư là kiên trì đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế; giải quyết mâu thuẫn thách thức trong phát triển, nỗ lực chuyển đổi phương thức phát triển từ “nâu” sang “xanh”, Quảng Ninh chú trọng phát triển du lịch, dịch vụ, tăng nhanh tỷ trọng đóng góp của công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghệ cao, công nghệ thông minh, thân thiện với môi trường vào GRDP và thu ngân sách. Đồng thời, chủ trương phát triển hợp lý, bền vững ngành công nghiệp khai khoáng, trọng điểm là ngành Than góp phần bảo đảm an ninh năng lượng theo quy hoạch.
Thứ năm là ưu tiên phát triển hệ thống kết cấu kinh tế hạ tầng. Tỉnh Quảng Ninh với tư duy đổi mới, sáng tạo, khát vọng phát triển bền vững, đồng thời nhận diện được những thách thức, hạn chế về cơ sở hạ tầng đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh, đặc biệt là tháo gỡ "nút thắt" về hạ tầng giao thông luôn được tỉnh xác định là huyết mạch để phát triển kinh tế - xã hội. Việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại là đòn bẩy để phát triển với mục tiêu đẩy mạnh huy động nguồn lực xã hội hóa để phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng trong bối cảnh ngân sách hạn hẹp, tỉnh Quảng Ninh đã triển khai mô hình đầu tư nhằm kết hợp và huy động nguồn lực từ khối tư nhân và thí điểm đầu tư theo phương châm “lấy đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư”.
Thứ sáu là tập trung cải cách hành chính, trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính. Trong đó có việc thành lập các trung tâm phục vụ hành chính công từ tỉnh đến cấp huyện, xã để xử lý điểm nghẽn, đưa ra giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo để thực hiện hiện cách hành chính.
Thứ bảy là gắn kết chặt chẽ giữa đô thị nông thôn, phát triển công nghiệp và dịch vụ, đảm bảo an sinh xã hội để nâng cao chất lượng đời sống nhân dân, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, chênh lệch vùng miền.
9h10: TS Nhị Lê, nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản: "24 mối quan hệ mà Quảng Ninh cùng các nước trong tiến trình đổi mới cần phải nhận diện, xử lý"
TS Nhị Lê, nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản tham luận tại hội nghị.
Tham luận về "Nhận diện, xử lý tổng thể và hiệu quả các mối quan hệ của công cuộc đổi mới ở Quảng Ninh", TS Nhị Lê nhấn mạnh: Bản chất và động lực của phát triển là năng lực khám phá, phát hiện các mâu thuẫn, các mối quan hệ và trình độ giải quyết chúng mang tầm chính thể và thống nhất với hệ thể chế tương dung và hiệu quả. Tất cả mọi sự phát triển đều bắt đầu từ sự nhận diện, trình tự giải quyết cũng như phải xác định rõ các mâu thuẫn.
Qua quan sát sự phát triển của tỉnh Quảng Ninh, đồng chí đã trình bày 24 mối quan hệ mà Quảng Ninh cùng các nước trong tiến trình đổi mới cần nhận diện, xử lý. Cụ thể gồm: Trung thành và sáng tạo; Tầm viễn kiến và định vị chiến lược; Tổng thể và đột phá; Phát triển nhanh, mạnh và bền vững; Phát triển môi trường sản xuất, xã hội, sinh thái và đột phá kiến tạo hệ thể chế; Văn hóa và phát triển; Tăng trưởng và hạnh phúc; Dân chủ và pháp quyền; Phát triển và nhân tài; Bản sắc và hội nhập; Vị thế và trách nhiệm; Công cụ và danh dự; Cá nhân và bộ máy tổ chức, cộng đồng; Trung thực và trong sạch; Cái uy và cái ân; Cái danh và cái lợi; Đạo đức và tự do; Chức vụ và uy tín; Việc nhà và việc nước; Liêm sỉ và nêu gương; Tuân thủ và sáng tạo; Hội tụ và lan tỏa; Cầu thị và tín nghĩa; Bình đằng và cùng hưởng lợi.
Qua thực tiễn xử lý tối thiểu 24 mối quan hệ cơ bản và chủ yếu trên, có thể khẳng định kinh tế phát triển nhanh, mạnh, bền vững song hành với phát triển văn hóa toàn diện là nền tảng gắn với xây dựng Đảng, hệ thống chính trị về văn hóa là then chốt. Mặt khác, chủ động liên kết trong nước, hội nhập toàn diện khu vực và quốc tế là động lực tiên phong; đồng thời phát huy đại đoàn kết toàn dân là động lực chủ yếu, nắm chắc và sử dụng chuyển đổi số là động lực trực tiếp và đột phá. Tất cả hợp thành sức mạnh tổng thể và toàn diện của mọi sự phát triển mang tầm chiến lược và thống nhất ngang tầm vị thế và tiềm năng Quảng Ninh 38 năm qua, nhất là 10 năm nay bứt phá và tạo gia tốc phát triển mới trong những năm tiếp theo.
Tư tưởng phát triển chuyển đổi đột phá, mạnh mẽ của các Đại hội XIII, XIV với tư tưởng trở thành cực tăng trưởng toàn diện, bền vững phía Bắc của Đại hội XV, kỳ vọng Quảng Ninh sẽ trở thành thành phố trực thuộc Trung ương tối đa trong 10 năm tới, khi vào Đại hội Đảng bộ tỉnh thứ XVI (2025-2030).
9h30: PGS.TS Bùi Thế Duy, Ủy viên Dự khuyết Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ: “Kinh nghiệm quốc tế trong công việc đột phá tư duy về tầm nhìn song hành với triển khai đổi mới sáng tạo và bài học kinh nghiệm cho tỉnh Quảng Ninh”
PGS.TS Bùi Thế Duy, Ủy viên Dự khuyết Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ tham luận tại hội thảo.
Tham luận tại hội thảo, PGS.TS Bùi Thế Duy đã chỉ ra một số kinh nghiệm quốc tế về triển khai các mô hình đổi mới sáng tạo ở địa phương, khu vực. Trong đó, có kinh nghiệm quốc tế từ Baden-Württemberg (BW) ở Đức và Brabant ở Hà Lan là đại diện cho các khu vực kỹ thuật hiệu năng cao; kinh nghiệm từ các khu vực chuyển đổi ở Styria của Áo và khu vực xung quanh thành phố Tampere ở miền Nam Phần Lan; kinh nghiệm từ các siêu cụm đổi mới sáng tạo ở Canada; kinh nghiệm từ các Khu đô thị công nghệ cao ở Trung Quốc.
Học hỏi kinh nghiệm thông qua hợp tác, hội nhập quốc tế cấp địa phương nói chung, ở tỉnh Quảng Ninh nói riêng có ý nghĩa quan trọng, được Đảng, Nhà nước quan tâm, được thể hiện trong chính sách đối ngoại, hợp tác và hội nhập quốc tế, đưa các mối quan hệ đi vào chiều sâu, thực chất và mang lại giá trị gia tăng cho tỉnh, thúc đẩy quá trình hợp tác, hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng của đất nước.
Tỉnh Quảng Ninh có nhiều lợi thế trong phát triển dịch vụ, phát triển công nghiệp, nông, lâm nghiệp và thủy sản, kinh tế biển, là một cực trong tam giác kinh tế tăng trưởng phía Bắc. Tỉnh Quảng Ninh có bờ biển kéo dài, diện tích mặt biển lớn, nhiều cảng nước sâu ít bồi lắng, nằm trong khu vực hợp tác “hai hành lang, một vành đai kinh tế”, là cửa ngõ kết nối ASEAN với Trung Quốc. Đây là những thuận lợi, lợi thế để Quảng Ninh thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, đặc biệt phát triển kinh tế dựa vào đổi mới sáng tạo. Do đó, kinh nghiệm từ các mô hình đổi mới, sáng tạo khu vực thành công không chỉ có ý nghĩa tham khảo cho Việt Nam trong thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo phục vụ phát triển kinh tế, xã hội mà còn có giá trị tham khảo cho tỉnh Quảng Ninh trong việc đổi mới tư duy về tầm nhìn song hành với triển khai đổi mới sáng tạo đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
9h50: PGS.TS Vũ Văn Hà, Ban Thư ký khoa học Hội đồng Lý luận Trung ương, nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản: "Thực tiễn phát triển kinh tế thị trường của Quảng Nình cho thấy sự đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta trong xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN"
PGS.TS Vũ Văn Hà, Ban Thư ký khoa học Hội đồng Lý luận Trung ương, nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản trình bày tham luận.
Tham luận về “Quan điểm mục tiêu, yêu cầu xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Nhìn từ thực tiễn Quảng Ninh”, PGS.TS Vũ Văn Hà đã tập trung làm rõ bước chuyển đổi sang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong bối cảnh cả nước thực hiện đường lối đổi mới. Quảng Ninh đã có những chủ trương đẩy mạnh phát triển nền kinh tế thị trường thể hiện trên một số khía cạnh sáng tạo, đó là: Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế của tỉnh gắn với quá trình chuyển đổi chung của cả nước. Nhận diện được những bất cập trong quá trình phát triển, từ những năm đầu của nhiệm kỳ 2010-2015, Quảng Ninh xác định chuyển đổi phương thức phát triển từ “nâu” sang “xanh” theo hướng bền vững dựa vào ba trụ cột: Thiên nhiên, con người, văn hóa kết hợp với xu thế hòa bình, hợp tác, hội nhập và cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Qua đó, để dần giảm bớt việc dựa vào các yếu tố không bền vững như tài nguyên hữu hạn và tăng dần các yếu tố bền vững dựa vào vị trí địa chính trị, kinh tế tri thức, khoa học công nghệ, tiêu dùng, đầu tư, xuất khẩu, cảnh quan, văn hoá, truyền thống lịch sử và trí tuệ con người... để phát triển, trên cơ sở định vị được tiềm năng, thế mạnh, sự phát triển của địa phương đặt trong bối cảnh khu vực, quốc gia, quốc tế. Đây là điểm đặc sắc của Quảng Ninh phù hợp và tiên phong theo xu hướng phát triển thế giới.
Quảng Ninh là địa phương có nhiều đột phá chiến lược trong phát triển: Đột phá về hạ tầng; Đột phá cải cách thể chế hành chính; Đột phá về nguồn nhân lực; Đột phá về xây dựng nền văn hóa giàu bản sắc Quảng Ninh gắn với thu hẹp nhanh khoảng cách giàu nghèo và chênh lệch vùng miền trong tỉnh. Quảng Ninh còn tạo sự đột phá trong phát triển các thành phần kinh tế, các thị trường, khai thông và phát huy các nguồn lực; đột phá phát triển kinh tế gắn liền với giải quyết các vấn đề xã hội, môi trưởng, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Từ thực tiễn phát triển kinh tế thị trường của Quảng Ninh cho thấy sự đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta trong xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Sự thành công của Quảng Ninh minh chứng cho sự vận dụng phù hợp, sáng tạo với thực tiễn Quảng Ninh, với nhiều chủ trương và cách làm sáng tạo.
Quảng Ninh đã có những đột phá trong huy động và sử dụng nguồn lực từ các thành phần kinh tế, các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, du lịch đồng bộ, hiện đại; đột phá trong đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; đột phá trong cải cách hành chính, trong quy hoạch, trong tuyển dụng, đào tạo cán bộ, xây dựng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao. Quan tâm giải quyết tốt, hài hòa các vấn đề xã hội, nhất là trong phát triển văn hóa, bảo đảm an sinh và công bằng, tiến bộ xã hội; nâng cao chất lượng đời sống nhân dân, thu hẹp chênh lệch vùng, miền. Quốc phòng, an ninh, chủ quyền biên giới quốc gia được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm, hoạt động đối ngoại được đẩy mạnh, từng bước nâng cao chất lượng đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Những đột phá, cách làm sáng tạo ấy đến từ sự mạnh mẽ trong tư duy dám làm, dám chịu trách nhiệm của Quảng Ninh. Không chỉ đổi mới một lần là xong, đổi mới và đột phá còn đòi hỏi cả sự kiên trì, tin ở nội lực, tin ở tư duy của mình. Những mô hình mà nay đã trở thành thực tiễn ở Quảng Ninh đã cung cấp những cơ sở, luận cứ quan trọng để cả nước thêm vững tin đổi mới, hướng tới những mục tiêu dài hạn như tinh thần của Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Với bản lĩnh và truyền thống đoàn kết, vượt khó của người dân vùng mỏ, Quảng Ninh sẽ phát huy lợi thế, điều kiện của địa phương để tận dụng thời cơ tiếp tục phát triển nhanh và bền vững.
10h00: PGS.TS Bùi Văn Huyền, Viện trưởng Viện Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh:“Mô hình tăng trưởng (mô hình kinh tế) Quảng Ninh trong tầm nhìn kết nối khu vực và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đầu vào”
PGS.TS Bùi Văn Huyền, Viện trưởng Viện Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, trình bày tham luận.
PGS.TS Bùi Văn Huyền, Viện trưởng Viện Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Là một trong những địa phương thành công trong chuyển đổi mô hình tăng trưởng, Quảng Ninh đã đạt được nhiều thành tựu cả về tốc độ và chất lượng tăng trưởng trên cơ sở khai thác tốt tiềm năng, thế mạnh, huy động các nguồn lực đặc biệt là khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Tuy nhiên, bên cạnh các kết quả đạt được, mô hình tăng trưởng của tỉnh đã bộc lộ một số thách thức cần giải quyết cũng xuất hiện một số điểm nghẽn trong quá trình phát triển. Để tháo gỡ được những điểm nghẽn tỉnh cần có hệ thống giải pháp đồng bộ và hệ thống.
Đề xuất một số nội dung để Quảng Ninh tập trung giải quyết, PGS.TS Bùi Văn Huyền nhấn mạnh: Thứ nhất, phát huy hơn nữa vai trò “kết nối”, “dẫn dắt” “cực tăng trưởng”. Với vị thế của một địa phương điểm nút trong kết nối kinh tế Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh, tỉnh có vai trò đặc biệt trong tổ chức không gian kinh tế, thúc đẩy các liên kết, hợp tác về sản xuất, đầu tư, thương mại, du lịch và đặc biệt là logistics. Không chỉ ở vai trò kết nối, Quảng Ninh còn có thể dẫn dắt sự phát triển của một số ngành, lĩnh vực trong Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và trong hành lang kinh tế Lào Cai, Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh (Việt Nam) với tỉnh Vân Nam (Trung Quốc). Ngoài ra, với vị thế của một cực tăng trưởng trong tam giác vàng Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh, tỉnh Quảng Ninh có lợi thế đặc biệt trong các hoạt động vận tải, logistics và phát triển đô thị. Với hệ thống kết cấu hạ tầng khá hoàn chỉnh, tam giác kinh tế Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh với 3 cảng hàng không quốc tế, 300 km đường bộ toàn tuyến, hệ thống cảng biển nước sâu và cảng nội địa, Quảng Ninh cần phát huy hơn nữa vai trò kết nối và dẫn dắt của mình cho sự phát triển của tỉnh nói riêng và của vùng, trong hành lang kinh tế và trong tam giác kinh tế nói chung. Vị thế này khiến Quảng Ninh không chỉ đặt phát triển kinh tế của tỉnh trong mối quan hệ cạnh tranh với các địa phương xung quanh, mà còn cần tìm ra điểm mạnh riêng của mỗi địa phương để phát triển mối quan hệ hợp tác nội vùng, liên vùng, làm nền tảng cho hợp tác khu vực và quốc tế.
Thứ hai, nâng cao chất lượng nguồn lực đầu vào, bao gồm cả phân bổ, sử dụng cũng như thu hút và hoán chuyển các nguồn lực cho phát triển. Với nguồn nhân lực, tỉnh ưu tiên 2 nhóm: Nâng cao nhân lực chất lượng cao trong khu vực công thông qua các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng và thiết kế, hoàn thiện các hệ thống đánh giá gắn với kết quả và hiệu quả công việc; đối với nguồn nhân lực cho các ngành, lĩnh vực, tùy thuộc vào mức độ ưu tiên để có các chính sách thu hút bằng các đãi ngộ tài chính, phi tài chính đối với nguồn nhân lực ngoài tỉnh, nhân lực là con em của tỉnh; đào tạo, đào tạo lại nguồn nhân lực hiện hữu, lấy thị trường lao động, lấy mức lương để kích thích các hoạt động tự đào tạo và lấy cạnh tranh nguồn nhân lực trên thị trường lao động để nâng cao chất lượng.
Với nguồn lực khoa học công nghệ, tập trung vào cả 3 nhóm vấn đề: Ứng dụng thành tựu của khoa học công nghệ trong quản trị, quản lý cả khu vực công và khu vực tư theo hướng minh bạch, nâng cao trách nhiệm giải trình và chuẩn mực quốc tế; thúc đẩy chuyển giao và chuyển hóa các nguồn lực khoa học công nghệ thành nguồn lực của tỉnh, của người dân và doanh nghiệp Quảng Ninh, phục vụ cho sự phát triển của tỉnh, bao gồm cả các nguồn lực khoa học công nghệ của các doanh nghiệp lớn trong và ngoài nước; đầu tư cho khoa học công nghệ theo hướng tập trung, ưu tiên, phù hợp với mục tiêu, chiến lược và các ngành, lĩnh vực đã xác định.
Với nguồn lực đất đai, cần sử dụng một cách tiết kiệm và ưu tiên đất đai cho phát triển những ngành, lĩnh vực mà tỉnh ưu tiên trong tương lai, như phát triển du lịch, logistics và công nghiệp.
Bên cạnh 2 giải pháp ưu tiên, để thực hiện thành công các mục tiêu đề ra, các giải pháp khác cũng cần chú trọng thực hiện đồng bộ, trong đó sớm ưu tiên các kế hoạch cụ thể cho phát triển các ngành, lĩnh vực ưu tiên như: phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, tiếp tục chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng xanh, số, tuần hoàn và bền vững; khai thác và phát triển kinh tế biển, phát triển du lịch và phát triển thương mại biên giới. Song song với các mục tiêu về phát triển kinh tế, các mục tiêu phát triển về xã hội, trong đó y tế, giáo dục và an sinh xã hội là những vấn đề đặc biệt cần quan tâm.
10h35: Đồng chí Nguyễn Xuân Ký, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh: Hệ giá trị của tỉnh Quảng Ninh “Thiên nhiên tươi đẹp - Văn hóa đặc sắc - Xã hội văn minh - Hành chính minh bạch - Kinh tế phát triển - Nhân dân hạnh phúc”
Đồng chí Nguyễn Xuân Ký, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh tham luận tại hội thảo.
Tham luận về Hệ giá trị của tỉnh Quảng Ninh “Thiên nhiên tươi đẹp - Văn hóa đặc sắc - Xã hội văn minh - Hành chính minh bạch - Kinh tế phát triển - Nhân dân hạnh phúc”, đồng chí Bí thư Tỉnh ủy nhấn mạnh: Hệ giá trị của tỉnh Quảng Ninh là mặt hợp trội của tổng thể các giá trị, các mối quan hệ giữa các giá trị đó và giữa các mặt cụ thể của chúng. Hệ giá trị của tỉnh không phải là phép cộng cơ học của từng giá trị, mà có sự gắn kết chặt chẽ, sâu sắc, tương hỗ giữa các giá trị đơn lẻ để cấu tạo nên giá trị mới mang tính hợp trội mà từng giá trị riêng lẻ không thể có được, cùng hướng đích vì sự phát triển chung của tỉnh. Hệ giá trị của tỉnh Quảng Ninh hình thành trên nền tảng thâu thái các giá trị phổ quát của quốc gia - dân tộc, với các giá trị đặc trưng không thể pha lẫn của các yếu tố vùng, miền; khẳng định bản sắc địa phương, là niềm tự hào, tự tôn của cộng đồng địa phương.
Trên cơ sở nhận thức về những giá trị văn hóa, lịch sử đặc sắc, hoà quyện chặt chẽ giữa yếu tố địa - tự nhiên với các yếu tố địa - chính trị, địa - kinh tế, địa - văn hóa,... của tỉnh, hệ giá trị của tỉnh Quảng Ninh được xác định với các đặc trưng: Thiên nhiên tươi đẹp - Văn hóa đặc sắc - Xã hội văn minh - Hành chính minh bạch - Kinh tế phát triển - Nhân dân hạnh phúc. Về mặt ý nghĩa, hệ giá trị của tỉnh Quảng Ninh là sợi dây nối liền quá khứ, hiện tại và tương lai, vừa mang tính truyền thống, vừa mang tính đương đại, phản ánh hơi thở của thời đại, trở thành mục tiêu, động lực, phương châm chỉ đạo, “hệ đường ray” để quy tụ lòng người, đoàn kết xã hội, xác định, gắn kết các định hướng lớn cho công cuộc xây dựng và phát triển của tỉnh
Các giá trị đặc trưng của tỉnh Quảng Ninh (Thiên nhiên tươi đẹp - Văn hóa đặc sắc - Xã hội văn minh - Hành chính minh bạch - Kinh tế phát triển - Nhân dân hạnh phúc) được định hình dựa trên cơ sở địa phương hóa các giá trị tốt đẹp của quốc gia - dân tộc và nhân loại làm thành bản sắc, cốt cách riêng có hệ giá trị Quảng Ninh, trở thành tầm nhìn phát triển địa phương. Đồng thời, giữa các thành tố của hệ giá trị Quảng Ninh có quan hệ khăng khít, chặt chẽ, tương hỗ, bao quát khá toàn diện trên các lĩnh vực: điều kiện tự nhiên - văn hóa - xã hội - chính trị - kinh tế - con người, trong đó “thiên nhiên tươi đẹp” là điều kiện; “văn hóa đặc sắc” là nền tảng; “xã hội văn minh” là chuẩn mực; “hành chính minh bạch” là môi trường; “kinh tế phát triển” là phương tiện và “nhân dân hạnh phúc” là mục tiêu cuối cùng hướng đến. Đây cũng là nội hàm cốt lõi trong mục tiêu quản trị phát triển bền vững địa phương với mô hình phát triển bền vững dựa trên việc tìm kiếm sự cân bằng giữa ba yếu tố: kinh tế, xã hội và môi trường, gắn với nâng cao năng lực chống chịu, sẵn sàng ứng phó trước các thách thức an ninh phi truyền thống ngày càng cực đoan hơn.
Hệ giá trị của tỉnh, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và hệ giá trị con người Quảng Ninh có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, tương hỗ, thúc đẩy nhau, thậm chí nhiều giá trị giao thoa, chuyển hóa lẫn nhau, hòa quyện trong nhau. Hệ giá trị của tỉnh có sự tích hợp các giá trị văn hóa, gia đình, con người, bao gồm những giá trị phổ quát và đặc thù, truyền thống và hiện đại, dân tộc và nhân loại, gắn với điều kiện thực tiễn của Quảng Ninh. Quan trọng hơn cả là cần chuyển hóa hiệu quả các giá trị trên thành nguồn sức mạnh nội sinh, nguồn lực vô hạn để Quảng Ninh “vươn lên, đã và đang trở thành một trong những tỉnh đi đầu trong công cuộc đổi mới sáng tạo của vùng đồng bằng Bắc Bộ, một cực tăng trưởng của khu vực phía Bắc” như căn dặn của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng; xây dựng, phát triển tỉnh Quảng Ninh là tỉnh tiêu biểu của cả nước về mọi mặt, ngày càng giàu đẹp, văn minh, hiện đại, nhân dân ngày càng hạnh phúc.
10h45: Trung tướng, PGS.TS Trần Vi Dân, Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương, Cục trưởng Cục Khoa học, Chiến lược và Lịch sử Công an: “Bảo đảm an ninh kinh tế trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế ở tỉnh Quảng Ninh”
Trung tướng, PGS.TS Trần Vi Dân, Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương, Cục trưởng Cục Khoa học, Chiến lược và Lịch sử Công an, tham luận tại hội thảo.
Ở phạm vi các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, vấn đề bảo đảm an ninh kinh tế trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, hội nhập, giao thương quốc tế trong tình hình hiện nay thực chất là bảo đảm an ninh kinh tế đất nước trên một địa bàn. Nó chứa đựng trong đó những yếu tố vĩ mô, nhưng cũng rất cụ thể. Tuy nhiên, với mỗi địa bàn khác nhau, sẽ có những điểm khác biệt. Đối với địa bàn tỉnh Quảng Ninh, một địa phương được ví như “Việt Nam thu nhỏ”, cần làm gì để bảo đảm an ninh kinh tế trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, hội nhập, giao thương quốc tế? Để trả lời câu hỏi này, cần nhận diện những yếu tố tác động đến tính ổn định, phát triển bền vững của hoạt động kinh tế trên địa bàn theo cả hai khía cạnh tích cực và không mong muốn.
Trong những năm tới, để bảo đảm an ninh kinh tế trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế ở tỉnh Quảng Ninh, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững, thật sự là đầu tàu của vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, trước hết cần thấu suốt và có giải pháp thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ chiến lược nhưng cũng rất cụ thể trên địa bàn, đó là: Phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hoá là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên. Cần xác lập một hệ thống giải pháp tổng thể để sự phát triển kinh tế Quảng Ninh đúng định hướng với đường lối của Đảng, Nhà nước, kỳ vọng của cấp uỷ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trên địa bàn tỉnh. Theo đó, phát triển bền vững, đúng định hướng xã hội chủ nghĩa trên cơ sở nội lực và quyết tâm cùng việc tận dụng các lợi thế của hội nhập quốc tế; loại bỏ những nguyên nhân, điều kiện tiêu cực. Trên cơ sở đó, cần chú trọng một số kiến giải sau đây:
Một là, nâng cao nhận thức về bảo vệ an ninh kinh tế cho các cơ quan, tổ chức, nhất là các đơn vị kinh tế trên địa bàn tỉnh. Trách nhiệm chính trong bảo vệ an ninh kinh tế là của thủ trưởng các ngành, các đơn vị kinh tế, không coi là nhiệm vụ của riêng lực lượng Công an nhân dân. Phát huy trách nhiệm của các cấp uỷ, tổ chức Đảng, nhất là người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo, quản lý trong lãnh đạo, chỉ đạo, quán triệt, cụ thể hoá, thực hiện nghiêm chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về bảo vệ an ninh kinh tế.
Hai là, xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị cơ sở thật sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, là hạt nhân lãnh đạo, tiêu biểu về trí tuệ, đạo đức, đoàn kết, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng.
Ba là, đẩy mạnh công tác bảo vệ an ninh chính trị nội bộ, bảo vệ bí mật nhà nước trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị kinh tế.
Bốn là, phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững. Đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, phát triển bền vững, bảo vệ môi trường sinh thái và tiến bộ công bằng xã hội; làm tốt công tác quy hoạch; chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa kết hợp chặt chẽ công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp. Phát triển công nghiệp xanh, công nghiệp sạch, công nghệ cao.
Năm là, kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội với đảm bảo quốc phòng, an ninh, đối ngoại (và ngược lại) trong chiến lược tổng thể cũng như từng bước đi, từng dự án, đề án, khu kinh tế. Thẩm định, đánh giá, giám sát chặt chẽ hoạt động đầu tư của nước ngoài đối với những ngành, lĩnh vực kinh tế quan trọng, then chốt và tại các địa bàn chiến lược, nhạy cảm. Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái, bảo tồn, phát huy giá trị di sản, kỳ quan, giữa phát triển kinh tế nhanh, bền vững với phát triển văn hóa, con người, bản sắc địa phương; chủ động ứng phó, thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai để thực hiện mục tiêu phát triển nhanh, bền vững.
Sáu là, quan tâm xây dựng, củng cố nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân, phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc vững chắc tại các cộng đồng dân cư, khu, cụm công nghiệp, khu kinh tế, nơi tập trung đông người lao động. Bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh tạo môi trường hoà bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững.
11h: PGS.TS. Nguyễn Chu Hồi, Phó Chủ tịch Hội Nghề cá Việt Nam, tham gia ý kiến phát biểu về “Quản lý tổng hợp không gian biển vì sự phát triển bền vững tỉnh Quảng Ninh"
PGS.TS. Nguyễn Chu Hồi, Phó Chủ tịch Hội Nghề cá Việt Nam, phát biểu ý kiến.
PGS.TS. Nguyễn Chu Hồi nhấn mạnh: Thời gian qua, Quảng Ninh luôn là một trong những tỉnh đi đầu trong tăng trưởng và chuyển đổi xanh trong lĩnh vực kinh tế biển. Nhiều hoạt động đã được triển khai, nhiều thành tựu liên quan đã đạt được, đặc biệt là về tăng trưởng kinh tế của tỉnh, trong đó có kinh tế biển. Phân bổ không gian biển, ven biển cho các ngành/lĩnh vực của kinh tế biển Quảng Ninh đến năm 2030 đã được Chính phủ phê duyệt, cần cụ thể hóa, hiện thực hóa. Đặc biệt, khi mà quy hoạch không gian biển quốc gia đến năm 2030 chỉ thực hiện ở cấp độ toàn quốc và tiến độ đang bị chậm, thì Quảng Ninh nên chủ động tiến hành phân vùng chức năng biển dựa vào hệ sinh thái để triển khai quy hoạch tỉnh đến năm 2030 đã được duyệt. Đến nay, hệ thống thu gom chất thải rắn, bao gồm rác thải nhựa khu vực ven biển, nhất là ven Vịnh Hạ Long được thực hiện bằng cách thu gom hỗn hợp thủ công, chưa phân loại triệt để, chưa tái sử dụng, tái chế.
Để quản lý bền vững không gian Vịnh Hạ Long, tỉnh cần lưu ý sử dụng hợp lý và phục hồi vụng Cửa Lục đang bị thu hẹp và nông hóa, thậm chí có thể thay đổi chức năng sử dụng không gian biển này. Theo đó, cần bảo tồn khu vực đỉnh vụng Cửa Lục để duy trì chức năng tiêu giảm sa bồi, tăng bảo vệ các công trình ven biển và Vịnh Hạ Long, bảo vệ sinh cảnh cho các loài sinh vật biển nước lợ. Cửa Lục cũng nằm trong hành lang sinh thái ven biển đề xuất trong quy hoạch môi trường, có vai trò quan trọng hỗ trợ và liên kết với hành lang sinh thái biển của tỉnh.
Tiếp tục hoàn thiện mô hình thể chế quản lý tổng hợp Di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long - Cát Bà. Do thuộc về hai chủ thể hành chính khác nhau - tỉnh Quảng Ninh và TP Hải Phòng, cho nên thiết chế tổ chức quản lý Di sản thiên nhiên thế giới mới này vừa riêng cho từng địa phương nhưng phải có cơ chế phối hợp quản lý giữa hai địa phương, nhất là phần không gian ranh giới giữa Vịnh Hạ Long (tỉnh Quảng Ninh) và quần đảo Cát Bà (TP Hải Phòng). Ngoài ra, cần xem xét, điều chỉnh ranh giới “vùng đệm (Buffer zone) cho khu di sản thiên nhiên thế giới mới này.
Không gian bảo tồn biển Cô Tô - Đảo Trần nằm gần sát Trung Quốc, có vị trí địa lý quan trọng cả từ góc nhìn phát triển và an ninh biển đảo, đặc biệt nơi đây lại có tiềm năng bảo tồn cao. Vì thế, việc bảo tồn và khai thác các giá trị từ bảo tồn ở đây sẽ đóng góp cho phát triển bền vững biển đảo về cả ba phương diện: Kinh tế, văn hóa - xã hội và môi trường. Ngoài ra, cần thúc đẩy bảo tồn không gian khu vực biển đảo Ba Mùn và vịnh Bái Tử Long.
Trên cơ sở xác định, nhận diện các vấn đề cụ thể của từng không gian bảo tồn biển nói trên, tỉnh sẽ xem xét điều chỉnh các hoạt động phát triển cụ thể. Đồng thời, dựa trên sơ đồ phân vùng chức năng biển dựa vào hệ sinh thái để bảo đảm các hoạt động phát triển kinh tế biển hài hoà với bảo tồn, bảo vệ môi trường biển, hướng tới phát triển kinh tế biển xanh, bền vững.
11h07: Đồng chí Nguyễn Đức Kiên, Tổ trưởng Tổ tư vấn của Thủ tướng Chính phủ về kinh tế, nguyên Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội: “Tư duy và hành động đột phá phát triển của Quảng Ninh: Thực tế và định hướng đến 2045”
Đồng chí Nguyễn Đức Kiên, Tổ trưởng Tổ tư vấn của Thủ tướng Chính phủ về kinh tế, nguyên Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội, phát biểu tham luận tại hội thảo.
Với diện tích hơn 12.000km2, 52% là đất liền, dân số 1,34 triệu người, là một trong những địa phương có tốc độ đô thị hóa gần 67%, cao gấp đôi trung bình cả nước (35,7%), Quảng Ninh là một trong số ít tỉnh nhiều năm liền có tốc độ tăng trưởng GDP địa phương 2 con số. Nhờ vậy, đến năm 2022, tổng thu ngân sách trên địa bàn đạt 54.831 tỷ đồng. Định hướng đến năm 2030, Quảng Ninh sẽ trở thành một thành phố trực thuộc Trung ương với 7 đô thị nhỏ. Vì vậy, cần phải có một định hướng dài hạn phù hợp với xu hướng phát triển bền vững, ổn định, có tốc độ cao.
Để đạt được các mục tiêu nêu trên, Quảng Ninh cần phải có một mô hình phát triển mới. Ở đây, chúng tôi đề xuất mô hình phát triển trong tương lai của Quảng Ninh là mô hình phát triển đô thị công nghiệp: Có các khu công nghiệp đủ lớn, có chính sách thu hút hợp lý các nhà đầu tư - nhà ở cho người lao động và cư dân phù hợp với thu nhập trên địa bàn, có các dịch vụ phục vụ đời sống phù hợp với cư dân có thu nhập trung bình cao (GDP bình quân đầu người lớn hơn hoặc bằng 15.000 USD).
Do hiện nay chúng ta đang có xu hướng ủy quyền nhiều nhiệm vụ của bộ máy quản lý nhà nước cho ban quản lý dự án các khu công nghiệp nên dẫn tới sự chồng chéo và rủi ro khi thực hiện đầu tư về cơ sở hạ tầng, tiếp cận đất đai, các thủ tục hành chính liên quan đến đầu tư, thành lập doanh nghiệp, xây dựng nhà xưởng,... Theo mô hình quy hoạch phát triển của địa phương đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, cần nhất thể hóa mô hình chính quyền đô thị và ban quản lý các khu công nghiệp.
Đổi mới nhận thức của xã hội và bộ máy quản lý nhà nước trong vấn đề giải quyết nhà ở cho công dân và người lao động trên cơ sở Hiến pháp và các luật: Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản cũng như Luật Đầu tư công và Luật Quản lý tài sản công,... chính quyền cơ sở có trách nhiệm đáp ứng yêu cầu về chỗ ở cho công dân bao gồm cả cho thuê và chuyển nhượng quyền sử dụng đất gắn liền với tài sản. Theo quy định của Hiến pháp, đất đai là sở hữu toàn dân, vì vậy chính quyền cơ sở có trách nhiệm phải có đất sạch để có thể huy động nguồn vốn từ ngân sách nhà nước và từ xã hội để phát triển nhà ở. Người lao động khi đến làm việc tại một trong 7 đô thị công nghiệp của Quảng Ninh có thể dễ dàng thuê một chỗ ở phù hợp với thu nhập và đáp ứng được các yêu cầu học tập, y tế, nghỉ dưỡng của cả gia đình. Chi phí vận hành các khu nhà ở xã hội sẽ được tính dựa trên mức thu nhập bình quân của khu vực, bảo đảm một phần lợi nhuận (nếu là nhà ở xã hội huy động vốn từ các thành phần kinh tế khác) hoặc có một số hoạt động sẽ được chính quyền địa phương bù lỗ như y tế, giáo dục,... Các chính sách hỗ trợ của chính quyền đô thị được lấy từ ngân sách địa phương và được coi như là một chính sách ưu đãi để thu hút các nhà đầu tư và người lao động có trình độ cao. Nhiều nước trên thế giới đều thực hiện phương thức hỗ trợ thu hút đầu tư và lao động có trình độ cao thông qua việc hỗ trợ an sinh xã hội và tạo điều kiện nhanh chóng để có cơ sở triển khai dự án. Điều này cũng rất hợp lý trong bối cảnh thế giới từ năm 2024 bắt đầu áp dụng chính sách thuế tối thiểu toàn cầu. Vấn đề quan trọng nhất đặt ra ở đây là cần thành lập các doanh nghiệp công ích của địa phương trong việc tạo ra quỹ đất sạch để thu hút doanh nghiệp và phát triển nhà ở xã hội.
Rà soát lại các hệ thống pháp lý liên quan đến hoạt động của các khu công nghiệp, khu kinh tế để xác định những vấn đề thuộc thẩm quyền của Trung ương và những vấn đề thuộc thẩm quyền của địa phương. Tạo điều kiện thuận lợi về: Thủ tục đầu tư kinh doanh tiệm cận với các khu đô thị, kinh tế tiên tiến trên thế giới. Tận dụng cơ sở hạ tầng kỹ thuật kết nối vùng và kết nối quốc tế hiện có và dự kiến trong tương lai. Khả năng thu hút được nguồn lao động chất lượng cao đến làm việc và sinh sống tại địa phương. Đáp ứng đầy đủ nguồn lao động có chất lượng cung ứng cho doanh nghiệp. Thu hút có chọn lọc một số nhà đầu tư có lợi thế về công nghệ hiện đại, có cam kết chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp nội địa, có khả năng tạo điều kiện cho doanh nghiệp nội địa tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Tăng cường hoạt động đầu tư và giám sát hoạt động bảo vệ môi trường.
Để tiếp tục nâng cao hơn nữa khả năng thực hiện quy hoạch phát triển kinh tế xã hội địa phương đã được các cấp có thẩm quyền phê duyệt, việc nghiên cứu mô hình: đô thị - khu công nghiệp - khu nghiên cứu công nghệ cao - trung tâm dịch vụ an sinh xã hội để tạo điều kiện thuận lợi đến năm 2030 các vấn đề đặt ra được pháp điển hóa trong các nghị quyết của Quốc hội và Chính phủ là yêu cầu cấp thiết đối với Quảng Ninh trong những năm tới.
11h15: PGS.TS. Bùi Hoài Sơn, Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội: "Phát triển công nghiệp văn hoá, tạo đột phá chiến lược trên cơ sở tiềm năng, thế mạnh của tỉnh Quảng Ninh"
PGS.TS Bùi Hoài Sơn, Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội, phát biểu tại hội thảo.
PGS.TS Bùi Hoài Sơn nhấn mạnh: Mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế đã, đang trở thành một chủ đề quan trọng, thú vị trong nghiên cứu và thực tiễn phát triển. Không chỉ là 2 khía cạnh độc lập, văn hóa và kinh tế thực sự có mối quan hệ mật thiết, tác động lẫn nhau đáng kể. Trong bối cảnh này, việc thúc đẩy phát triển công nghiệp văn hóa và sáng tạo trở thành một yếu tố quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của các khu vực, địa phương.
Đồng chí đưa ra những gợi ý cho phát triển công nghiệp văn hóa - sáng tạo, tạo đột phá chiến lược cho Quảng Ninh như: Cần tập trung đầu tư vào phát triển các sản phẩm du lịch văn hóa để thu hút du khách và phát triển ngành du lịch; tập trung phát triển ngành công nghiệp điện ảnh; đặt ra các mục tiêu cụ thể về tổ chức các sự kiện âm nhạc, concert, festival âm nhạc để thu hút khách du lịch và thúc đẩy sự phát triển của ngành này; tập trung nhiều hơn về tổ chức các buổi biểu diễn chuyên nghiệp và sự kiện nghệ thuật để giới thiệu văn hóa đặc trưng của địa phương...
Văn hoá đóng vai trò quan trọng trong phát triển bền vững của một địa phương, góp phần vào sự giàu có và tiến bộ của xã hội. Quảng Ninh nhận thức được giá trị của ngành công nghiệp văn hóa và định vị nó như một ngành kinh tế chủ đạo trong chiến lược phát triển của tỉnh. Định vị các lĩnh vực công nghiệp văn hóa ở Quảng Ninh không chỉ đem lại lợi ích kinh tế mà còn góp phần bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống, xây dựng thương hiệu của Quảng Ninh, tạo cơ hội việc làm và thu hút du khách. Việc xây dựng cơ chế thuận lợi cho phát triển các ngành công nghiệp văn hóa ở Quảng Ninh là bước quan trọng để thúc đẩy phát triển bền vững, tạo ra sự đa dạng kinh tế. Qua đây, góp phần đưa Quảng Ninh trở thành một trung tâm công nghiệp văn hoá đáng chú ý, góp phần vào sự phát triển toàn diện của địa phương, đem lại lợi ích lan tỏa cho đất nước.
11h22: GS.TS Đặng Hùng Võ, Nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường: “Đổi mới, hoàn thiện chính sách đất đai, nhà ở và thị trường bất động sản đưa Quảng Ninh trở thành trung tâm du lịch - dịch vụ văn minh, hiện đại, một cực tăng trưởng nhanh của phía Bắc”
GS.TS Đặng Hùng Võ, Nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, tham luận tại hội thảo.
Một trong những điều chúng ta cần quan tâm là khả năng tạo giá trị gia tăng của đất tại những vị trí được phát triển thành các khu công nghiệp, khu kinh tế, khu du lịch, khu đô thị và khả năng thu hút đầu tư từ các nơi khác đến. Nguồn lực đầu tư làm cho giá trị đất đai tăng thêm trước hết là các khu du lịch, khu đô thị ở Quảng Ninh có thu hút được sự quan tâm đầu tư của các nhà đầu tư từ nơi khác đến không.
Cho đến nay, Quảng Ninh mới thu hút được đầu tư hạ tầng từ Sun Group vào con đường ven biển từ Hải Phòng tới Hạ Long, rồi từ Hạ Long tới Vân Đồn và từ Vân Đồn tới Móng Cái. Sun Group, Vingroup và một số nhà đầu tư khác tiếp tục đầu tư các bất động sản du lịch và nhà ở tại thành phố Hạ Long và Vân Đồn. Giá đất tại Hạ Long có tăng cao hơn, nhưng chưa tạo được sức hút đầu tư mạnh mẽ hơn từ các nhà đầu tư thứ cấp. Điều này cho thấy tiềm năng là có, sức hút cũng đã có, nhưng chưa thực sự mạnh, nhất là từ sau đại dịch COVID-19 và tình trạng thị trường bất động sản đang rơi vào tình trạng khó khăn rất lớn. Điều này cho thấy nguyên nhân của sức hút đầu tư tới Quảng Ninh chưa cao là do tình trạng yếu kém của thị trường bất động sản hiện nay. Khi thị trường bất động sản được phục hồi, chắc chắn sức hút đầu tư tới Hạ Long, Vân Đồn và Móng Cái cũng sẽ được phục hồi.
Cho tương lai gần, Quảng Ninh cần tính tới một quy hoạch đô thị hóa ở phạm vi tổng thể hơn và tính tới khả năng thu hút đầu tư từ các nhà đầu tư nước ngoài. Rất tiếc là hiện nay các nhà đầu tư bất động sản ở Trung Quốc cũng đang rơi vào khủng hoảng, kinh tế thế giới cũng đang ở trạng thái bấp bênh vì xung đột vũ trang ở nhiều nơi đang xảy ra. Việc cần làm lúc này là Quảng Ninh phải xem xét quy hoạch hệ thống các khu đô thị, khu du lịch, khu công nghiệp, khu dịch vụ ngoài con đường hạ tầng ven biển đã hình thành. Các khu vực cần ưu tiên xem xét là các đảo lớn ngoài khơi xa có khả năng tạo thành các khu du lịch ở nhiều cấp hạng khác nhau gắn với các loại hình kinh tế biển. Tiếp theo là xem xét chuỗi đô thị dọc biên giới với Trung Quốc gắn với các khu kinh tế cửa khẩu Móng Cái - Đông Hưng. Tiếp theo nữa là các đô thị miền núi gắn với du lịch sinh thái và trải nghiệm vùng núi. Cuối cùng là các đô thị gắn với các khu công nghiệp khai thác than.
Khi hình thành các khu công nghiệp, khu dịch vụ, khu đô thị, cần phải tính toán ngay biện pháp xử lý việc hình thành các cơ chế thu giá trị gia tăng của đất như thế nào trong quá trình phát triển đô thị. Ở nhiều nước, người ta sử dụng cơ chế thu thuế, phí gắn với định giá đất để xác định giá trị bất động sản tăng thêm. Cách này không phù hợp với Việt Nam vì có tính được giá trị bất động sản tăng thêm nhưng người có bất động sản cũng không có thu nhập để nộp. Ngay thu bằng thuế thu nhập khi chuyển nhượng bất động sản cũng sẽ khó khăn, vì người dân vẫn không tự nguyện ghi giá chuyển nhượng thực lên hợp đồng. Việc thu giá trị gia tăng của đất ở Việt Nam chỉ có thể giải quyết bằng cơ chế định giá đất trong quá trình đô thị hóa gắn với chia sẻ lợi ích từ giá trị gia tăng của đất.
Đặt vấn đề tư duy đột phá phát triển Quảng Ninh lúc này cũng có những khó khăn nhất định, vì thị trường bất động sản đang gặp nhiều ách tắc do pháp luật gây ra và kinh tế thế giới đang gặp những trở ngại lớn. Các quốc gia và nền kinh tế đã đạt được những bước phát triển mạnh vào top 10 đến 20 trên thế giới đã rút ra bước đi khá rõ ràng. Đối với các nước dân số lớn, sức mạnh của thị trường lớn đã giúp họ vượt lên; đối với các nước dân số nhỏ, họ phải dựa vào các đặc điểm địa kinh tế của mình mà tìm ra điểm mạnh, nhưng đều phải dựa vào nguồn vốn từ đất để đầu tư phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và công nghệ cao nhằm tạo ra hàng hóa đặc biệt của mình làm ra sức mạnh trên thị trường. Việt Nam nói chung, tỉnh Quảng Ninh nói riêng cũng không thể nằm ngoài quy luật phát triển này.
11h39: Đồng chí Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng thư ký Liên đoàn Công nghiệp Việt Nam: "Quảng Ninh - nơi nuôi dưỡng tinh thần cải cách"
Đồng chí Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng thư ký Liên đoàn Công nghiệp Việt Nam, phát biểu ý kiến tại hội thảo.
Phó Tổng thư ký Liên đoàn Công nghiệp Việt Nam nhấn mạnh: Quảng Ninh là điểm sáng trong thu hút đầu tư, cả các dự án đầu tư nước ngoài và cả các dự án đầu tư trong nước. Quảng Ninh là một “hiện tượng” rất đáng chú ý gần đây trong tất cả các tỉnh, thành phố ở Việt Nam, nổi bật lên như một địa phương đang tạo lập được một hình ảnh năng động, hiệu quả và thân thiện với các doanh nghiệp và nhà đầu tư. Một nơi nuôi dưỡng tinh thần cải cách. Tinh thần cải cách này thể hiện rõ trong chất lượng điều hành kinh tế. Từ những vị trí khiêm tốn nhiều năm trước đây, thời gian gần đây Quảng Ninh vươn lên đứng trong nhóm dẫn đầu cả nước trong bảng xếp hạng PCI, bộ chỉ số đánh giá về chất lượng điều hành kinh tế của các tỉnh, thành phố ở Việt Nam. Đặc biệt từ PCI 2017 đến PCI 2022, Quảng Ninh liên tục đứng đầu cả nước về chất lượng điều hành kinh tế theo đánh giá của cộng đồng doanh nghiệp.
Từ góc nhìn thực tế kinh doanh, có thể thấy Quảng Ninh khác với nhiều địa phương khác là luôn có được tinh thần tiên phong, đi đầu trong việc tìm tòi các mô hình mới, cách làm hay, đáp ứng nhanh nhất các nhu cầu từ thực tiễn kinh doanh. Nhiều mô hình cải cách tiêu biểu của Quảng Ninh như: Mô hình Trung tâm hành chính công tập trung; mô hình Ban Xúc tiến và hỗ trợ đầu tư IPA; Xây dựng và công bố Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp sở, ngành, quận huyện (DDCI). Ba mô hình này là những mô hình tiêu biểu trong cải cách mà Quảng Ninh đã thực hiện thành công thời gian qua trong lĩnh vực cải thiện môi trường kinh doanh, thu hút đầu tư và phát triển doanh nghiệp. Ngoài ra, còn một số mô hình và cách làm khác rất thành công như thu hút đầu tư tư nhân trong phát triển hạ tầng; mô hình đầu tư tư - sử dụng công… Những cải cách từ Quảng Ninh rất quan trọng, không chỉ mang lại những thành tích về phát triển kinh tế cho chính Quảng Ninh, mà còn nuôi dưỡng những thay đổi tích cực từ các tỉnh, thành phố khác, một động lực đặc biệt quan trọng của nền kinh tế đất nước.
11h37: Bế mạc hội thảo, PGS.TS Phạm Văn Linh, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, nhấn mạnh:
PGS.TS Phạm Văn Linh, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, kết luận và bế mạc hội thảo.
Từ chủ đề của Hội thảo: “Tư duy và hành động đột phá phát triển của tỉnh Quảng Ninh - Giá trị lý luận và thực tiễn”, Ban Tổ chức Hội thảo đã nhận được hơn 100 bài viết, báo cáo tham luận của các ban, bộ, ngành Trung ương, của nhiều chuyên gia, nhà khoa học, của các đồng chí lãnh đạo tỉnh Quảng Ninh, các ban, sở, ngành, các đảng bộ trực thuộc Tỉnh ủy Quảng Ninh với các báo cáo tham luận chất lượng, được đầu tư kỹ lưỡng. Trong thời gian làm việc tại Hội trường, các quý vị đại biểu cũng đã được lắng nghe các bài phát biểu, 12 tham luận và các ý kiến phát biểu theo tinh thần vừa có phần trình bày tham luận, vừa có những ý kiến trao đổi, bình luận để làm sâu sắc hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn về tư duy và hành động đột phá phát triển của tỉnh Quảng Ninh.
Tổng hợp nội dung các báo cáo tham luận, ý kiến phát biểu tại Hội thảo, có thể thấy, với cách tiếp cận toàn diện, khách quan, khoa học, các lãnh đạo, chuyên gia, nhà khoa học đã đi sâu phân tích, luận giải sâu sắc những vấn đề cốt lõi và tầm vóc, giá trị to lớn của tư duy và hành động đột phá trong quá trình phát triển của tỉnh Quảng Ninh.
Các đại biểu tập trung trình bày về những vấn đề chung cơ sở lý luận và thực tiễn, yếu tố, điều kiện khách quan xác lập, thúc đẩy tư duy và hành động đột phá phát triển của tỉnh Quảng Ninh. Các tham luận và ý kiến thảo luận tập trung phân tích làm sáng tỏ một số nội dung: Những tiềm năng, lợi thế cạnh tranh, những “điểm nghẽn”, “nút thắt” gây cản trở cho sự phát triển của tỉnh để có tư duy, hành động đột phá tháo gỡ những vấn đề mâu thuẫn của quá trình phát triển, xác định giữa tầm nhìn dài hạn gắn với trung hạn; giữa ưu tiên ngắn hạn với mục tiêu dài hạn; giải quyết hài hòa giữa đổi mới, sáng tạo, phát triển nhanh với bảo đảm tăng trưởng, phát triển trong dài hạn là bền vững. Việc lựa chọn những vấn đề trọng tâm, trọng điểm, trình bày thực tiễn về tư duy và hành động đột phá phát triển của tỉnh Quảng Ninh trong một số lĩnh vực cụ thể.
Từ sự phân tích các nội dung cơ bản trên, các tham luận và ý kiến tập trung đánh giá tư duy, hành động đột phá của Quảng Ninh vào tầm vóc, diện mạo, vị thế mới của tỉnh, giúp “Quảng Ninh vươn lên, đã và đang trở thành một trong những tỉnh đi đầu trong công cuộc đổi mới sáng tạo của vùng đồng bằng Bắc Bộ, một cực tăng trưởng của khu vực phía Bắc” như lời Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định tại cuộc làm việc với tỉnh ngày 06/4/2022; có những đóng góp quan trọng vào sự đổi mới, phát triển chung của đất nước. Những bài học kinh nghiệm quý báu của Quảng Ninh không chỉ có ý nghĩa đối với địa phương, mà còn đóng góp quan trọng vào sự nghiệp cách mạng chung cho toàn Đảng và đất nước trong tiến trình đổi mới. Những đánh giá và bài học kinh nghiệm rút ra từ việc khẳng định vai trò của tư duy và hành động đột phá của Quảng Ninh là cơ sở nhận diện, gợi mở những tầm nhìn, tư duy, hành động đột phá mới, căn cứ đưa ra những giải pháp chính sách nhằm thúc đẩy cho sự phát triển toàn diện, bền vững của Quảng Ninh trong thời gian tới.